1. Khái niệm hành vi thương mại
Thương mại là hoạt động ra đời sớm trong lịch sử xã hội loài người, trên cơ sở sự phân công lao động xã hội, nó đã tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Sự ra đời và phát triển của thương mại gắn liền với nền sản xuất hàng hoá.
Khi có sự phân công lao động lần thứ ba trong xã hội, thương nghiệp ra đời, xuất hiện tầng lớp chuyên mua bán các sản phẩm để kiếm lời – các thương nhân, lúc đó hành vi thương mại đã được hình thành.
Thương mại, comerxium (tiếng Latinh), commerce (tiếng Anh), KOMMEPIỊM5I (tiếng Nga) có nghĩa là buôn bán. ở nước ta, theo cách hiểu phổ thông, thương mại là hoạt động trao đổi hay giao lưu hàng hoá, dịch vụ hên cơ sở thuận mua vừa bán.
Thuật ngữ “hành vi thương mại” được sử dụng khá phổ biến trong Luật Thương mại của một số nước. Chẳng hạn như trong Bộ luật Thương mại Pháp, tuy chưa xác định rõ khái niệm thế nào là hành vi thương mại nhưng đã liệt kê một số hành vi được coi là hành vi thương mại (xem Điều 632,633 Bộ luật Thương mại Pháp).
ở Việt Nam trước đây, trong Bộ luật Thương mại của Việt Nam Cộng hoà đã xác định một cách khái quát về hành vi thương mại, đó là những hành vi chế tạo, lưu chuyển, trung gian có mục đích kiếm lời trực tiếp hay gián tiếp (xem Điều 340 Bộ luật Thương mại Việt Nam Cộng hoà năm 1972).
Như vậy, khái niệm thương mại được hiểu ở nghĩa rộng hơn quan niệm thông thường về thương mại (là mua bán). Trong nội hàm của khái niệm hàm chứa nhiều loại hành vi khác ngoài mua bán đó là “chế tạo”, “trung gian”.
Ở nước ta, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thuật ngữ thương mại với nghĩa là một hoạt động ít khi được sử dụng. Chỉ đến thời kì chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thuật ngữ thương mại mới được sử dụng trở lại. Tuy nhiên, thuật ngữ này được hiểu ở nghĩa hẹp của nó, đó là mua bán. Theo các tác giả Đặng Đình Đào và Hoàng Đức Thân thì “thực chất của thương mại là quá trình trao đổi hàng hoá qua mua bán ưên thị trường” hoặc theo khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại năm 1997 thì:
“Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chỉnh sách kinh tế – xã hội”.
Khi diễn ra quá trình hội nhập khu vực và thế giới, khái niệm thương mại dần được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Khái niệm hành vi thương mại theo nghĩa rộng đã được pháp luật Việt Nam ghi nhận trong Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003. Theo khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài thương mại, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kĩ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Hoặc, theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Như vậy, cũng như pháp luật quốc tế và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, hiện nay pháp luật Việt Nam đã ghi nhận khái niệm thương mại (trade hoặc commerce) được hiểu theo nghĩa rộng. Tuy nhỉên, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận về hành vi thương mại bằng một khái niệm có nghĩa khái quát hơri đó là hoạt động thương mại (tổ hợp các hành vi thương mại). Theo quy định của khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005:
“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Dưới giác độ học thuật, khái niệm hành vi thương mại được xem xét ở đây tương ứng với khái niệm hoạt động thương mại cụ thể: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư…
2. Quy định chung về hành vi thương mại
Một hành vi được coi là hành vi thương mại khi thoả mãn các điều kiện sau:
1) Hành vi do thương nhân thực hiện. Trong trường hợp công dân WfUs’ hàng của thương nhân thì hành vi mua của công dân đó là hành vi dân sự, còn hành vi bán hàng của thương nhân là hành vi thương mại;
2) Hành vi được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động thương mại của thương nhân. Ví dụ: hành vi mua hàng để bán lại của thương nhân là hành vi thương mại nhưng nếu mua hàng để thoả mãn nhu cầu của cá nhân thì là hành vi dân sự.
Luật thương mại Việt Nam năm 1997 quy định 14 loại hành vi thương mại là: mua bán hàng hoá; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hoá; đại lí mua bán hàng hoá; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hoá; đấu thầu hàng hoá; dịch vụ giao nhận hàng hoá; dịch vụ giám định hàng hoá; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hoá; hội chợ, triển lãm thư- ơng mại. Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định hành vỉ thương mại ở nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm những hành vi mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá mà còn bao gồm nhiều hành vi khác như: đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khai thác, vận chuyển…
Tuy nhiên, ngày 14.6.2005, tại kì họp thứ 7, Quốc hội Khoá XI đã thông qua Luật thương mại mới – Luật thương mại năm 2005, có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2006. Theo đó, thuật ngữ “hành vi thương mại không còn được sử dụng, thay thế vào đó là việc sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại” đễ chỉ các hoạt động của thương nhân.
3. Đặc điểm của hành vi thương mại
Đặc điểm của hành vi thương mại được Giáo trình này xem xét trong mối quan hệ với hành vi dân sự, có nghĩa là sẽ tập trung phân tích tính chất chung của hành vi thương mại và hành vi dân sự đồng thời làm sáng tỏ nét riêng biệt của hành vi thương mại.
Theo GS.TSKH. Đào Trí úc thì:
“Hành vi thương mại là một biểu hiện của hành vi pháp lý dân sự, phải là đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân Sự và Luật Thương mại”.
Như vậy, mối quan hệ giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại được nhìn nhận là mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, trong đó, hành vi dân sự là cái chung, hành vi thương mại là cái riêng.
Cái chung (tính chất chung) của hai loại hành vi này thể hiện ở chỗ hành vi dân sự và hành vi thương mại đều là hành vi của con người, phát sinh và tồn tại trong quá trình sản xuất, trao đổi sản phẩm, hàng hoá, đều là những nội dung của quan hệ hàng hoá – tiền tệ và ở những mức độ nhất định đều chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan.
Bên cạnh những điểm giống nhau tạo nên tính chất chung giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại, giữa chúng cũng có những điểm khác biệt và chính những điểm khác biệt này tạo nên đặc điểm của hành vi thương mại. Hành vi thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi thương mại khác hành vi dân sự về thời điểm xuất hiện và về tỉnh ổn định.
Xét về mặt lịch sử, hành vi dân sự ra đời từ rất sớm trong lịch sử xã hội loài người, từ khi con người tạo ra những sản phẩm dư thừa và có nhu câu ữao đổi lấy những sản phẩm khác loại của người khác với mục đích thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của mình. Còn hành vi thương mại xuất hiện muộn hơn, khi sự phân công lao động trong xã hội đạt đến trình độ nhất định, trong xã hội xuất hiện tầng lớp chuyên mua đi bán lại các sản phẩm, hàng hoá với mục đích kiếm lời thì thương mại mới ra đời.
Cũng dưới góc độ lịch sử, có thể nói, các quan hệ dân sự mang tính ổn định và bền vững cao hơn các quan hệ thương mại. Đặc biệt, các quan hệ này ít chịu tác động hơn của các biến động bên ngoài về chính trị, xã hội so với các quan hệ thương mại. Chính vì vậy, có thể nói, hành vi thương mại hay thay đổi, ít bền vững hơn hành vi dân sự. Lịch sử đã cho thấy nhiều cách thức xử sự, nhiều nguyên tắc chung của các chế định về sở hữu, thừa kế, hôn nhân, khế ước v.v. đã xuất hiện từ thời khởi thủy của luật dân sự, đến nay vẫn còn được chấp nhận. Trong khi đó, quan hệ thương mại chịu sự ảnh hưởng của thực tế đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nhiều hơn, do đó, cách thức xử sự của các chủ thể thương mại thường phải thay đổi cho phù hợp với những thay đổi của đời sống kinh tế – xã hội. Có thể lấy những sự thay đổi trong việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế ở nước ta trong thời kì kế hoạch hoá tập trung và trong thời kì đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta làm ví dụ minh chứng cho điều đó.
Qua nghiên cứu lịch sừ ra đời và phát triển của quá trình trao đổi hàng hoá, có thể khẳng định hành vi dân sự ra đời sớm hơn và ổn định hơn hành vi thương mại.
Thứ hai, hành vi thương mại được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lợi.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005:
“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi… ”.
Theo PGS.TS. Đỗ Đình Toàn thì:
“Thương mại phải gắn với thị trường, thị trường và thương mại đi liền với nhau như hình với bóng”.
Sở dĩ thương mại phải được diễn ra trên thị trường là vì mua bán là khâu quan trọng nhất, là thành tố của hành vi thương mại. Nói đến thương mại không thể không nói đến thành tố này. Còn các yếu tố khác (sản xuất và dịch vụ) phải kết hợp với khâu muạ bán mới có thể coi là thực hiện xong một hành vi thương mại.
Là hành vi diễn ra trên thị trường, hành vi thương mại phải tuân theo các quy luật của thị trường, trong đó phải kể đến các quy luật như: Quy luật cạnh tranh, quy luật tăng lợi nhuận, quy luật kých thích sức mua giả tạo, quy luật cung cầu… và các quy luật riêng trong thương mại như quy luật của người mua, quy luật về ý chí tiến thủ của chủ doanh nghiệp. Dưới sự tác động của các quy luật đó, các hành vi thương mại có những nét đặc thù so với các hành vi dân sự.
Chẳng hạn, dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, các chủ doanh nghiệp thường phải vươn lên giành giật lây toàn bộ hoặc một phần nào đấy của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển, để làm được điều đó, ngoài việc tiến hành các hành vi thương mại, các chủ thể thương mại có thể thực hiện các mưu kế trong thương mại nhằm buộc đối thủ cạnh tranh của mình nhất định phải hành động theo đúng dự định do mình đặt ra. Điều này hầu như không được biết đến khi thực hiện các hành vi dân sự. Hoặc dưới tác động của quy luật của người mua, các chủ thể thương mại sẽ phải bán ra cái mà thị trường cần chứ không phải bán ra cái mình đang có, phải có trách nhiệm với khách hàng cả sau khi hàng đã bán và phải đảm bảo chữ “tín” trong thương mại để phát triển lâu dài sự nghiệp thương mại của mình. Đây là điều ít thấy khi thực hiện hành vi dân sự tương tự, nơi việc mua bán thường được thực hiện theo phương thức “mua đứt, bán đoạn”.
Theo quy định của pháp luật, hành vi thương mại không chỉ là hành vi diễn ra trên thị trường mà còn là hành vi nhằm mục đích sinh lợi.
Đây là đặc điểm mà dựa vào đó để phân biệt hành vi thương mại với hành vi dân sự. Nếu một hành vi được thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng (thoả mãn các nhu cầu cá nhân) thì đó là hành vi dân sự; ngược lại, cũng hành vi đó nhưng được thực hiện nhằm mục đích sinh lợi thì đó là hành vi thương mại. Tiêu chí này được sử dụng khá phổ biến để phân biệt hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Không dừng lại ở đó, từ chỗ khác nhau về mục đích này, có thể phái sinh nhũng sự khác nhau khác giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại về các yếu tố cấu thành nên các hành vi đó, về khách thể mà các hành vi đó hướng tới, thậm chí cả yếu tố tâm lý của các chủ thể thực hiện hành vi … Chẳng hạn, xuất phát từ mục đích lợi nhuận, hành vi thương mại bắt buộc phải có hai yếu tố cấu thành quan trọng nhất đó là mua và bán, có nghĩa để được coi là hành vi thương mại hoàn chỉnh, chủ thể thương mại trước hết phải mua hàng hoá sau đó phải bán hàng hoá đó đi, có như vậy, mới nói đến vấn đề lợi nhuận. Điều đó khác với hành vi dân sự, trong đó chỉ thuần túy mua hoặc bán. Ví dụ khác, người nào đó có thể mua nhà để ở, thương nhân có thể mua nhà để kinh doanh. Ở đây, khách thể của hai hành vi trên đều là ngôi nhà nhưng sự quan tâm của hai chủ thể đó đối với ngôi nhà lại khác nhau. Đối với người mua nhà để ở, sự quan tâm của nó chủ yếu tập trung vào thuộc tính thứ nhất của ngôi nhà, đó là giá trị sử dụng. Còn đối với người mua để bán lại quan tâm nhiều hơn đến thuộc tính thứ hai của ngôi nhà, đó là giá trị.
Như vậy, thương mại – hành vi được thực hiện trên thị trường và nhằm mục đích sinh lợi là đặc điểm quan trọng, mang tính khách quan cùa hành vi thương mại trong mối quan hệ với hành vi dân sự nói chung.
Thứ ba, hành vi thương mại là hành vi mang tính chất nghề nghiệp, được thương nhân (tồ chức, cả nhân kinh doanh) thực hiện.
Thương mại là hành vi mang tính nghề nghiệp có nghĩa là chủ thể của hành vi khi tham gia thương trường thực hiện sự phân công lao động xã hội. Các hành vi này được chủ thể tiến hành thường xuyên, liên tục, thể hiện tính chuyên nghiệp cao và mang lại thu nhập chính cho chủ thể thực hiện hành vi. Dựa vào nét đặc thù này, dễ dàng nhận thấy rằng mặc dù trên thương trường có thể diễn ra những hành vi nhằm mục đích sinh lợi nhưng chúng không thể được coi là hành vi thương mại, bởi lẽ đó không phải là hành vi thường xuyên của người thực hiện hành vi, hơn nữa, hành vi đó không mang lại thu nhập chính cho người đó. Ví dụ, nhân chuyến đi công tác, một viên chức mua số lượng hàng hoá nhất định nào đó ở nơi công tác về để bán kiếm lời.
Liên quan đến đặc điểm này của hành vi thương mại, đặc thù về chủ thể thực hiện hành vĩ thương mại cũng có một ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt hành vi dân sự với hành vi thương mại. Như trên đã phân tích, chủ thể thương mại trước hết là chủ thể hành vi dân sự (pháp nhân, cá nhân), các chủ thể này phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nhưng điều đó không có nghĩa tất cả các chủ thể của hành vi dân sự đều là chủ thể thực hiện hành vi thương mại. Xuất phát từ tính chất của hành vi thương mại, chỉ có những chủ thể nào hội đủ những điều kiện nhất định mới là thương nhân. Những điều kiện để frở thành chủ thể thương nhân phải được pháp luật quy định cụ thể. Tuy pháp luật chưa quy định cụ thể, nhưng những điều kiện đó có thể hiểu là phải có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng nào đó về các yếu tố cần có của quá trình thực hiện hành vi thương mại (vốn, tài sản, sức lao động …); trong khuôn khổ của pháp luật, phải được tự do và chủ động tiến hành các hành vi thương mại và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả cuối cùng của quá trình đó. Chính những điều kiện riêng này tạo nên đặc thù của thương nhân.
Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, phải dựa vào điểm đặc thù này để xác định trở lại giao dịch nào là giao dịch dân sự, giao dịch nào là giao dịch thương mại. Bởi vì, ở nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá và cung ứng dịch vụ, một bên có mục đích lợi nhuận còn bên kia lại có mục đích tiêu dùng, một bên sẽ có hành vi thương mại còn bên kia sẽ có hành vi dân sự. Trong những trường hợp cụ thể như vậy, Nhà nước còn phải dựa vào đặc thù về chủ thể để xác định tính chất của giao dịch. Chẳng hạn, khi xác định tính chất thương mại của các giao dịch, Bộ luật Thương mại Cộng hoà Liên bang Đức dựa trên dấu hiệu chủ quan, đã quy định, giao dịch thuơng mại là giao dịch được các thương gia thực hiện.
Mặc dù là tiêu chí chủ quan nhưng nó cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phân biệt giữa Luật Thương mại và Luật Dân sự. Ở đây, trong các trường hợp cụ thể đòi hỏi các nhà làm luật phải có những quy định rõ ràng để xác định phạm vi điêu chỉnh của pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Có như vậy mới điều chỉnh bằng pháp luật một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội.
Cũng cần lưu ý rằng, xuất phát từ bản chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng như xuất phát từ vai trò của hành vi thương mại trong nền kinh tế, Nhà nước tác động ở mức độ cao hơn vào các hành vi thương mại so với các hành vi dân sự. Nhà nước tác động vào hành vi thương mại thông qua các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế ở tầm vĩ mô cũng như hệ thống pháp luật của mình. Thông qua hệ thống quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, Nhà nước định hướng cho sự phát triển của các hành vi thương mại còn thông qua hệ thống pháp luật Nhà nước sẽ xác định rõ tính chất của hành vi thương mại, những hành vi thương mại bị cấm hoặc những hành vi thương mại có điều kiện và thủ tục pháp lý để một hành vi thương mại được coi là hợp pháp … Chẳng hạn, để thực hiện hành vi thương mại, chủ thể phải tiến hành đăng ký kinh doanh (nay gọi là đăng ký doanh nghiệp) hoặc hành vi sản xuất, trao đổi hàng hoá nào đó trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi, chỉ được coi là hành vi thương mại nếu hành vi đó không bị pháp luật cấm.
Ngoài ra, sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại còn được thể hiện ở chỗ khi thực hiện các hành vi thương mại, Nhà nước buộc các chủ thể phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Ví dụ, về nguyên tắc, bất cứ chủ thể nào khi thực hiện hành vi thương mại cũng phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ bảo vệ môi trường, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh …
Chính sự tác động của Nhà nước vào hành vi thương mại đã tạo nên sự khác biệt nhất định giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Tóm lại, giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại có những sự tương đồng và khác biệt. Chính trên cơ sở sự tương đồng, khác biệt đó có thể nhìn nhận một cách khái quát mối quan hệ giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó hành vi dân sự là cái chung và hành vi thương mại là cái riêng. Với tư cách cái chung và cái riêng, hành vi dân sự và hành vi thương mại đều tồn tại khách quan và độc lập tương đối với nhau; những thuộc tính vốn có của các hành vi dân sự được biểu hiện cụ thể trong các hành vi thương mại đồng thời trong hành vi thương mại cũng có những nét đặc thù riêng của nó.
Xem thêm: Chủ thể của luật thương mại gồm những đối tượng nào?