Hầu hết ai cũng có suy nghĩ, đã là con thì đều là con chung của vợ chồng. Tuy nhiên, theo Luật Hôn nhân và gia đình, vẫn có những trường hợp con chỉ là con riêng của một người mà thôi.
1. 04 trường hợp được xác định là con chung
Theo Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, con được xác định là con chung của vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp:
– Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Tuy nhiên, nếu người chồng không thừa nhận đây là con chung thì phải có chứng cứ và được Tòa án xác định.
– Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung.
– Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
– Con sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân (ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết).
Như vậy, con sinh ra sau khi ly hôn vẫn có thể là con chung nếu thời gian đứa bé được sinh không quá 300 ngày kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực.
2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái
Nếu đúng là con chung của vợ chồng sau khi ly hôn thì cả cha và mẹ đều có quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng con cái. Cụ thể:
– Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
– Vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về người trực tiếp nuôi con; quyền, nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì xem xét đến nguyện vọng của con.
– Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
– Đối với cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
+ Tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
+ Thăm nom con mà không bị ai cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.