Trên thực tế, thiệt hại xảy ra có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ cây cối. Khi cây cối gây ra thiệt hại cho chủ thể khác thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự 2015 về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra:
Điều 604. Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Theo nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất phát từ hành vi trái pháp luật có thể tồn tại ở dạng hành động hoặc không hành động. Theo đó, khi cây cối gây thiệt hại thì những người có quyền và nghĩa vụ liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của chủ thể được xác định dựa trên hành vi trái pháp luật của chủ thể, mà cụ thể là tồn tại dưới dạng không hành động.
Thông thường, các chủ thể có trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng cây cối phải có nghĩa vụ trong việc đảm bảo sự an toàn cho những người xung quanh bằng cách thực hiện các công việc như: phát cành; nếu cây có nguy cơ đổ, gãy thì phải chặt, đốn cây;….Tuy nhiên, chủ thể đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng khiến cho thiệt hại xảy ra, nên họ buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Căn cứ vào quy định của pháp luật, những chủ thể sau phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra:
– Một là, chủ sở hữu: Theo nguyên tắc, chủ sở hữu là người trực tiếp sử dụng, quản lý, sử dụng cây cối, họ được hưởng hoa lợi, lợi tức mà cây cối đem lại. Do đó, khi có thiệt hại xảy ra thì họ phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp quản lý, sử dụng cây cối nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu giữa chủ sở hữu và người quản lý tài sản có thỏa thuận về việc chủ sở hữu chịu trách nhiệm bồi thường. Từ đó có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu đối với thiệt hại do cây cối gây ra xuất phát từ ba nguyên tắc sau:
+ Chủ sở hữu là người trực tiếp sử dụng, quản lý tài sản. Với tư cách là chủ sở hữu có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chủ thể được thực hiện mọi hành vi đối với tài sản của mình. Họ được hưởng lợi ích mà cây cối đem lại, do đó, khi cây cối gây thiệt hại cho người khác thì họ phải chịu trách nhiệm.
+ Chủ sở hữu đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các biện pháp đảm bảo an toàn gây nên thiệt hại. Theo đó, chủ thể có tài sản là cây cối phải thực hiện các công việc đảm bảo an toàn như cắt, tỉa cành, chặt cây khi có nguy cơ bị đổ,….Khi những công việc này không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng mà gây thiệt hại cho người khác, thì chủ sở hữu đương nhiên phải chịu trách nhiệm.
+ Chủ sở hữu có thỏa thuận với người quản lý, sử dụng cây cối về việc chính chủ sở hữu sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
– Hai là, người chiếm hữu, người được giao quản lý: Người chiếm hữu, người quản lý cây cối là chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến cây cối, do đó, họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do cây cối gây ra trong thời hạn chiếm hữu, quản lý, cụ thể:
+ Người chiếm hữu là người vừa thực hiện việc quản lý, chăm sóc cây cối cho chủ sở hữu vừa nắm giữ cây cối đó trên thực tế. Họ là người được chủ sở hữu trao quyền hoặc không. Tức họ có thể là người chiếm hữu hợp pháp hoặc không hợp pháp. Tuy nhiên, điều đó không làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của họ trong việc bồi thường thiệt hại.
+ Người quản lý là người được chủ sở hữu chuyển giao quyền quản lý cây cối trong một khoảng thời gian xác định hoặc không. Trong thời gian quản lý, người quản lý có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho cây cối và cho những người xung quanh. Do đó, trong thời gian đó nếu cây cối gây thiệt hại cho chủ thể khác thì họ có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại.