Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 đã có bước tiến bộ hơn so với Bộ luật hình sự trước đó khi quy định thêm về tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân.
1. Cấu thành tội phạm
Đây là một tội ghép, bao gồm 04 tội danh được thiết kế trong một điều luật với các khung hình phạt tương ứng nhau là: tội xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận; tội xâm phạm quyền tự do báo chí; tội xâm phạm quyền tiếp cận thông tin và tội xâm phạm quyền biểu tình của công dân. Tội phạm này có các dấu hiệu pháp lý như sau:
1.1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin và quyền biểu tình của công dân. Đây là các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và được quy định tại Luật báo chí 2016, Luật tiếp cận thông tin 2016 và Nghị định số 38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ về việc quy định một số biện pháp bảo đảm trật tự công cộng.
1.2. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể thường tức là người đạt độ tuổi theo luật quy định (từ 14 tuổi trở lên) và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, căn cứ theo khung hình phạt quy định tại Điều luật thì chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.
Trường hợp người phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở người khác thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân thì bị xử phạt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 167 BLHS năm 2015.

1.3. Mặt khách quan của tội phạm
Đây là tội phạm có cấu thành hình thức, tức là chỉ cần có hành vi xâm phạm các quyền trên là đã đủ yếu tố để bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó, hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm này là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác làm cản trở công dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin và quyền biểu tình của công dân. Như vậy, hành vi ở đây có thể diễn ra dưới dạng hành động (dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực) hoặc có thể diễn ra dưới những thủ đoạn khác, có thể là không hành động. Hành vi khách quan của tội này được thể hiện ở 3 dạng hành vi:
- Hành vi dùng vũ lực là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động vào người khác như đánh, trói cản trở người này thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân.
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực là hành vi bằng lời nói, cử chỉ dọa sẽ dùng vũ lực để cưỡng bức tinh thần người khác cản trở họ thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân.
- Dùng thủ đoạn khác có thể là uy hiếp tinh thần dọa gây thiệt hại về tài sản, danh dự uy tín hoặc lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở người khác đang thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân. Ngoài ra thủ đoạn khác còn có thể là việc cố tình chậm trễ trong việc công bố thông tin, không tạo điều kiện cho người khác thực hiện các quyền nêu trên….Thủ đoạn khác có thể là việc cố tình chậm trễ trong việc công bố thông tin, không tạo điều kiện cho người khác thực hiện các quyền nêu trên….
Hành vi trên cấu thành tội phạm khi chủ thể đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà họ thực hiện trước đó mà lần này vẫn còn vi phạm.
Hậu quả của hành vi phạm tội có thể đã xảy ra hoặc chưa xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu cấu thành tội phạm bắt buộc đối với hành vi này.
1.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, đó có thể là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội hiểu rõ hậu quả của việc cản trở và cố tình thực hiện mọi hành vi để cản trở; hoặc có thể là cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức được hậu quả nhưng để mặc hậu quả xảy ra. Bởi việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác nhằm ngăn cản người khác thực hiện các quyền công dân xuất phát hoàn toàn từ sự định đoạt từ ý chí chủ quan của người phạm tội.
Động cơ và mục đích của người thực hiện hành vi phạm tội này rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
2. Hình phạt
Điều 167 BLHS năm 2015 quy định 2 khung hình phạt:
Khung cơ bản: (khoản 1)
Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Được áp dụng đối với các trường hợp phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản được nêu ở trên.
Khung tăng nặng: (khoản 2)
Có mức hình phạt được áp dụng là tù từ 01 năm đến 05 năm với các tình tiết định khung bao gồm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, người phạm tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung sau: Cấm đảm nhiệm chức vụ từ 01 đến 05 năm, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.