Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vì hoặc khả năng điều khiển hành vi theo các đòi hỏi của xã hội.
Theo Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:
Điều 21. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Phân tích về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
2.1. Điều kiện giả định
Điều kiện giả định bao gồm: (i) Hành vi nguy hiểm cho xã hội, (ii) mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác, (iii) làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
2.1.1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội
Hành vi nguy hiểm ở đây được hiểu là những hành vi có thể hoặc đã gây tổn hại đến các mối quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Nói cách khác, hành vi đó phải là hành vi thuộc mặt khách quan của ít nhất một tội được quy định cụ thể trong Bộ Luật này.
Đây là tiền đề để dẫn nhập vào các nội dung sau, bản thân nó không có giá trị trong việc có loại trừ trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện hành vi hay không và dấu hiệu hành vi khách quan này không phải là mấu chốt của vấn đề.
2.1.2. Đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác
Đầu tiên cần phải chú ý đến cụm “trong khi đang”. Trước tiên cần xác định như thế nào là đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cơ sở nào để xác định một ai đó có đang mắc bệnh tâm thần hay không? Có 2 trường hợp có thể xảy ra:
Trường hợp 1: Người đó đã có Giấy xác nhận của cơ quan Y tế có thẩm quyền về bệnh tâm thần đang mắc phải và (hoặc) tuyên bố mất năng lực hành vi của Tòa án.
Trường hợp 2: Chưa có bất kỳ một giấy tờ nào từ cơ quan có thầm quyền chứng minh tình trạng bệnh lý của người thực hiện hành vi.
Trường hợp 1 thông thường sẽ rất dễ dàng trong việc xác định người đó có bị mắc bệnh tâm thần hay không, tuy nhiên trong trường hợp 2 thì việc này sẽ trở nên khó khăn hơn khi phải tiến hành việc giám định bệnh tâm thần sau khi hành vi đã được thực hiện trong thực tế. Và cái khó khăn nhất là làm rõ được 2 chữ “trong khi”. Ngành Y học đã chứng minh có một số bệnh tâm thần mà biểu hiện của bệnh lý không diễn ra một cách liên tục, cái mà nhân gian hay gọi 3 hồi tỉnh 3 hồi say nghĩa là mặc dù bị mắc bệnh nhưng tỉnh thoảng họ vẫn tỉnh táo nhận thức một cách bình thường. Đối chiếu theo đúng quy định của điều luật trong trường hợp đó họ sẽ không được loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên thực tế để xác định việc có loại trừ hay không trong những trường hợp này rất khó khăn. Và điều luật này cũng nhiều lần bị lợi dụng nhằm trốn tránh trách nhiệm bằng cách xin giấy chứng nhận bị bệnh tâm thần mà báo chí hay gọi là kim bài miễn tử.
2.1.3. Làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi
“Đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác” chỉ là điều kiện cần mà thôi, để đảm bảo điều kiện đủ, bệnh tâm thần hay bệnh khác nào đó phải dẫn đến mất khả năng nhận thức (không thể biết được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội) hoặc mất khả năng điều khiển hành vi (vẫn ý thức được nhưng không thể điều khiển được do bệnh lý – thông thường là các bệnh liên quan đến hệ thần kinh vận động). Lưu ý ở đây là mất chứ không phải là hạn chế, nghĩa là trường hợp hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi thì vẫn không thuộc trường hợp được loại trừ theo quy định tại điều luật này mà hạn chế đó có thể được dùng làm căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
2.2. Hệ quả
Dễ dàng để nhận thấy đây là trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do không thỏa mãn được yếu tố mặt chủ thể trong cấu thành tội phạm. Cụ thể là chủ thể đã không đáp ứng được điều kiện “..do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện…”
3. Tải file Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 (hợp nhất năm 2017) – Phần chung
Tải về: Bình luận Bộ luật Hình sự 2015 (hợp nhất năm 2017) – Phần chung