Việc giải quyết các vụ việc dân sự tiến hành nhanh chóng sẽ sớm giải quyết được tranh chấp, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Để thực hiện được điều này thì mỗi hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đều phải tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian này được gọi là thời hạn tố tụng.
Thời hạn tố tụng dân sự là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan thực hiện hành vi theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Việc xác định thời hạn tố tụng là rất cần thiết. Một mặt, nó có ý nghĩa trong việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Mặt khác, việc xác định thời hạn tố tụng còn có ý nghĩa xác định trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người liên quan trong trường hợp họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ và quyền hạn của họ trong thời hạn tố tụng cụ thể.

Các loại thời hạn tố tụng gồm có: thời hạn giao nộp chứng cứ; thời hạn xem xét đơn khởi kiện; chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của toà án; thời hạn cấp, tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng; thời hạn khiếu nại, giải quyết khiếu nại trong tố tụng dân sự v.v.. Để bảo đảm được việc giải quyết các vụ án dân sự, các thời hạn tố tụng nói chung đều được pháp luật quy định cụ thể như thời hạn chuẩn bị xét xử; thời hạn kháng cáo, kháng nghị vv.. Ngoài ra, thời hạn cũng có thể được các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng ấn định trong khuôn khổ quy định của pháp luật tố tụng khi cần thiết như thời hạn giao nộp chứng cứ, thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện v.v..
Thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra. Cách tính thời hạn tố tụng, thời điểm bắt đầu, kết thúc thời hạn tố tụng được Điều 182 BLTTDS năm 2015 quy định, áp dụng theo các quy định tương ứng của BLDS (Điều 144 đến Điều 148 BLDS năm 2015). Thời hạn tố tụng cũng được tính theo dương lịch như thời hạn dân sự. Trong trường hợp thời hạn là một năm, nửa năm, một tháng, nửa tháng, một tuần, một ngày, một giờ mà khoảng thời gian diễn ra không liền nhau thì một năm là 365 ngày; nửa năm là sáu tháng; một tháng là 30 ngày; nửa tháng là 15 ngày, một tuần là 7 ngày; một ngày là 24 giờ v.v.. Đối với thời điểm bắt đầu thời hạn, khi thời hạn được xác định bằng giờ thì thời hạn được bắt đầu từ thời điểm đã xác định; khi thời hạn được xác định bằng ngày, tuần, tháng, năm thì ngày đầu tiên của thời hạn không được tính mà tính kể từ ngày tiếp theo của ngày được xác định; khi thời hạn bắt đầu bằng một sự kiện thì không tính ngày xảy ra sự kiện mà tính ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện đó. Đối với thời điểm kết thúc thời hạn, khi thời hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn; khi thời hạn tính bằng tuần thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tuần cuối cùng của thời hạn; khi thời hạn tính bằng tháng thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày tương ứng của tháng cuối cùng của thời hạn; khi thời hạn tính bằng năm thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày, tháng tương ứng của năm cuối cùng của thời hạn; khi ngày cuối cùng của thời hạn là ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc tiếp theo ngày nghỉ đó v.v..
Tuy vậy, thời hạn trong tố tụng dân sự so với thời hạn dân sự cũng có những sự khác biệt nhất định. Thời hạn dân sự có thể do pháp luật quy định hoặc do các đương sự thoả thuận. Thời hạn tố tụng chỉ do pháp luật quy định hoặc do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng ấn định theo quy định của pháp luật, các đương sự và những người khác nói chung không có quyền thoả thuận xác lập thời hạn tố tụng. Thời hạn dân sự theo thời gian liên tục; thời hạn tố tụng có thể bị gián đoạn bởi các ngày nghỉ của cán bộ, công chức như ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc ngày lễ và các hoạt động tố tụng được thực hiện phải thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng. Hơn nữa, hoạt động tố tụng dân sự thường diễn ra ban ngày để bảo đảm tính công khai, minh bạch của việc giải quyết vụ việc dân sự nên thời hạn tố tụng được tính bằng ngày, tháng, năm là chủ yếu, ít khi thời hạn tố tụng được tính bằng giờ như thời hạn dân sự.
Tuy thời hạn tố tụng có khác thời hạn dân sự ở một số điểm nhưng về cơ bản chúng vẫn giống nhau. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, ngoài việc phải căn cứ vào các quy định của BLTTDS thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng còn phải căn cứ cả vào các quy định tương ứng của BLDS để xác định thời hạn tố tụng.