1. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 344 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây là một điều luật mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quy định này nhằm bảo đảm cho Tòa án xét xử khách quan, chính xác vụ án; tạo điều kiện thuận lợi cho những người kháng cáo, có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng; nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ; tiết kiệm được chi phí cho các hoạt động tố tụng. Thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của điều luật này là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự Trung ương. Theo quy định này thì:
“1. Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyên xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án quân sự cấp quấn khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo,
Tòa án quân sự Trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị”.
Như vậy, Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị; Tòa án nhân dân cấp tỉnh bao gồm các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố của tỉnh đó bị kháng cáo, kháng nghị.
Trên cơ sở quy định về thẩm quyền của 04 cấp Tòa án nhân dân trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định đối với những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng cáo, kháng nghị sẽ do Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án quân sự cấp quân khu tương đương về thẩm quyền xét xử với Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án quân sự khu vực đã xét xử sơ thẩm có bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.
Tòa án quân sự Trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị. Tòa án quân sự Trung ương tương đương về thẩm quyền xét xử với Tòa án nhân dân cấp cao. Tòa án quân sự Trung ương là Tòa án cấp trên trực tiếp của các Tòa án quân sự cấp quân khu, có quyền xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.
2. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xét xử lại vụ án trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị, nghĩa là kháng cáo, kháng nghị về phần nào của bản án, quyết định thì xem xét lại phần đó. Nếu kháng cáo, kháng nghị về toàn bộ bản án, quyết định thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xét xử lại toàn bộ vụ án.
Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án sơ thẩm nếu xét thấy cần thiết. Điều 345 không quy định thế nào là trường hợp “cần thiết”. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Mục 4 Phần VI Thông tư liên tịch số 01-TANDTC-VKSNDTC/TTLT ngày 08/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Vỉện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự, trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bên cạnh đó chỉ có khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại thì Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét phần bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại.
3. Thời hạn xét xử phúc thẩm
Thời hạn xét xử phúc thẩm là thời gian mà Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự Trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hổ sơ vụ án.
Thời hạn nêu trên bao gồm cả thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Tòa án cấp phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp. Trước đây, theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm phải chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu hổ sơ vụ án của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu là 10 ngày, của Viện phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương là 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Trong trường hợp cần gia hạn thêm thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án thì Viện kiểm sát phải thông báo cho Tòa án biết, nhưng thời gian gia hạn thêm tối đa không quá 05 ngày.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định về thời hạn kể từ thời điểm thụ lý hồ sơ vụ án đến khi ra một trong các quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Theo đó, trong thời hạn 45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự Trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các quyết định: a) Đình chỉ xét xử phúc thẩm; b) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung về thời hạn Tòa án phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc bổ sung quy định này nhằm tạo điều kiện để Tòa án chủ động lên kế hoạch xét xử cũng như bảo đảm thời hạn xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng sửa đổi, bổ sung một loại thời hạn, đó là: sau khi có quyết định xét xử phúc thẩm, chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Quy định này nhằm bảo đảm trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát và những người liên quan để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa một cách chủ động.