1. Quyền tác giả là gì?
Quyền tác giả, theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép vì từ “copyright” được ghép từ “copy” (sao chép) và “right” (quyền). Trong hệ thống thông luật (common law) đặc biệt chú trọng đến việc khai thác giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ thông qua quyền “sao chép” của tác giả. Trong thuật ngữ “copy right” không thể hiện vị trí vai trò của tác giả, vì vậy theo hệ thống common law thường được gọi là bản quyền cho phù hợp với thuật ngữ này. Việc bảo hộ quyền tác giả thường được quy ước sử dụng ký hiệu © hay (C), sau đó thường là người sở hữu và năm công bố. Theo Công ước toàn cầu về bản quyền (Universal Copyright Convention) ký hiệu này được thể hiện trong tác phẩm để thông báo quyền tác giả.
Các nước theo hệ thống luật dân sự (cilvil law) điển hình là Pháp gọi là quyền tác giả (droit d’ auteur). Ngay trong thuật ngữ này tác giả được đề cập một cách trực tiếp thể hiện quyền của tác giả trước hết là quyền tinh thần đối với những tài sản trí tuệ do mình sáng tạo ra, sau đó mới là quyền kinh tế (thương mại hóa tài sản trí tuệ). Với thuật ngữ quyền tác giả đã thể hiện và ghi nhận trực tiếp các quyền tinh thần và quyền kinh tế của tác giả (tuy còn những quan điểm chưa thống nhất nhưng đây là những quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả). Các văn bản pháp luật Việt Nam dựa trên cơ sở hệ thống luật dân sự đều thể hiện và ghi nhận quyền tác giả. Trong Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986 văn bản đầu tiên điều chỉnh quyền tác giả và tiếp đó Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất, sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hóa khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền SHCN”. Trên cơ sở đó, Bộ luật Dân sự 1995, Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đều sử dụng thuật ngữ quyền tác giả.
Bộ luật Dân sự 2005 không quy định thế nào là quyền tác giả và quyền liên quan. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 lần đầu tiên quy định về khái niệm quyền tác giả, tạo được sự minh bạch, cụ thể, rõ ràng về các đối tượng đó, đây là những quy định mới rất tiến bộ: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu (Khoản 2, Điều 4).
2. Chủ thể, khách thể và nội dung của quyền tác giả
Với tư cách là một môn học, khi nghiên cứu quyền tác giả dưới góc độ một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung.
2.1. Chủ thể quyền tác giả bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả
Theo Điều 736 Bộ luật Dân sự 2005, tác giả là người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (dưới đây gọi chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó. Trong trường hợp có hai người hoặc nhiều người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả. Người sáng tạo ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó.
Tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm như nhạc sỹ sáng tác bài hát, nhà văn công bố tiểu thuyết,… có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm đó, nếu vừa là tác giả vừa là chủ sở hữu tác phẩm. Các cá nhân, tổ chức hỗ trợ, đóng góp ý kiến hay cung cấp tài liệu, phương tiện, tài chính cho người khác sáng tạo không phải là tác giả.
Những trường hợp cá nhân sáng tạo ra tác phẩm theo nhiệm vụ được giao hoặc theo đơn đặt hàng của một cá nhân, tổ chức khác thì cá nhân, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả sáng tạo hoặc thuê tác giả sáng tạo sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu như tác giả nắm giữ các quyền tinh thần (nhân thân) thì chủ sở hữu quyền tác giả là người nắm giữ các quyền kinh tế, có quyền khai thác giá trị thương mại từ tác phẩm.
2.2. Khách thể của quyền tác giả cũng dựa trên cơ sở khách thể của quan hệ pháp luật, là kết quả của quá trình sáng tạo của tác giả tạo ra một sản phẩm (tác phẩm)
Bộ luật Dân sự 2005 chỉ quy định đối tượng quyền tác giả bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào. Đề cập vấn đề này, trong một tài liệu về Quyền sở hữu trí tuệ đã viết “chúng ta phải định nghĩa rõ thế nào là tác phẩm. Một cuốn sách không phải là một tác phẩm. Đó là một ấn phẩm hay xuất bản. Tác phẩm là một tài sản vô hình, đã tạo ra bản nguyên gốc đầu tiên của cuốn sách ấy. Nói khác đi, tác phẩm chính là thành quả lao động sáng tạo của tác giả”.
2.3. Nội dung của quyền tác giả bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản của các chủ thể
2.3.1. Quyền nhân thân
Theo pháp luật dân sự, quyền nhân thân được hiểu là những quyền luôn gắn liền với các chủ thể, không thể chuyển giao. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quyền tác giả, bên cạnh những quyền nhân thân luôn gắn liền với tác giả, quyền công bố tác phẩm là tiền đề để có thể thực hiện được các quyền tài sản, nên có thể chuyển giao cho chủ thể khác.
Pháp luật quốc tế, điển hình là Công ước Berne quy định quyền tinh thần đó là quyền về danh nghĩa tác giả và quyền được tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm: độc lập với các quyền kinh tế của tác giả và thậm chí ngay cả sau khi quyền đó được chuyển giao, tác giả phải có quyền đòi công nhận danh nghĩa tác giả đối với tác phẩm và phản đối bất kỳ đối với sự làm biến dạng, cắt xén hoặc thay đổi nào khác đối với tác phẩm của tác giả có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm của tác giả (Điều 6 Bis, Công ước Berne).
Các nước theo hệ thống Civil Law đặc biệt quan tâm đến quyền tinh thần là những quyền gắn với nhân thân của tác giả vĩnh viễn, không thể từ bỏ và không thể chuyển giao cho người khác. Trong các quyền nhân thân, quyền được tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm được chú trọng, kể cả khi tác phẩm được chuyển giao cho các chủ thể khác thì các quyền nhân thân không mất đi và “đứa con tinh thần” của tác giả vẫn được bảo hộ. Theo pháp luật các nước (Đức, Tây Ban Nha, Pháp, Italia, Thụy Sỹ, Bỉ), tác giả có bốn loại quyền tinh thần: độc quyền phổ biến tác phẩm, quyền đặt tên, quyền được tôn trọng sự toàn vẹn của tác phẩm, quyền thay đổi các nghĩa vụ hợp đồng hoặc thu hồi các tác phẩm đã được công bố ra khỏi sự lưu thông thương mại nếu tác phẩm không còn phản ánh quan điểm của mình nữa”, “Ở các nước common law (Canada, Hoa Kỳ, Anh), tác giả chỉ có hai loại quyền tinh thần: quyền đặt tên (quyền danh nghĩa tác giả) và quyền được tôn trọng sự toàn vẹn tác phẩm. Quyền phổ biến tác phẩm bao gồm quyền công bố, quyền sao chép (thực chất là quyền kinh tế)”.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành ở nước ta ghi nhận và bảo vệ quyền nhân thân của tác giả. Khoản 1, 2, 4 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định quyền nhân thân không thể chuyển giao bao gồm: đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
2.3.2. Quyền tài sản
Quyền tài sản (pháp luật một số nước còn gọi là quyền kinh tế) là độc quyền khai thác hoặc cho người khác khai thác tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả.
Theo Công ước Berne thì “quyền tài sản” được gọi là quyền kinh tế (economic right). Ghi nhận và thực hiện quyền này là hướng tới khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm, đảm bảo tái sản xuất sức lao động và thúc đẩy sự sáng tạo của tác giả. Nếu quyền tài sản không được quan tâm và bảo vệ đúng mức thì sự xâm phạm quyền tác giả sẽ tràn lan, khó thúc đẩy tạo ra những tác phẩm có giá trị.
Các quyền tài sản thuộc quyền tác giả bao gồm: làm tác phẩm phái sinh; biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Chủ sở hữu quyền tác giả là người nắm giữ các quyền tài sản kể trên. Các tổ chức, cá nhân muốn sử dụng một hoặc một số các quyền tài sản đang trong thời hạn bảo hộ quyền tác giả phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Ví dụ, ca sĩ khi biểu diễn tác phẩm trong một chương trình nghệ thuật, nhà xuất bản khi in ấn, phát hành một tác phẩm,… phải trả tiền cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.