Quyền sở hữu theo quy định của BLDS 2015

0 1.335

Theo quy định của BLDS thì quyền sở hữu là những quyền năng dân sự đối với tài sản. Điều 164 BLDS đã xác nhận: Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt i sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật...“. Đây là những quyền dân sự cụ thể của chủ sở hữu, hay còn gọi là quyền dân sự chủ quan. Ba quyền năng trên hợp thành nội dung của quyền sở hữu.

1. Quyền chiếm hữu

Theo xác nhận tại Điều 186 BLDS thì quyền chiếm hữu là quyền năng của chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình, nắm giữ, chi phối tài sản thuộc sở hữu những không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.

Trong thực tế, chủ sở hữu thường tự mình bằng các hành vi của bản thân để thực hiện quyền chiếm hữu tài sản, hay còn gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Trong một số trường hợp, chủ sở hữu chuyển quyền này cho người khác thông qua một hợp đồng dân sự thì chủ sở hữu vẫn thực hiện quyền kiểm soát đối với tài sản, người thực tế nắm giữ vật thay mặt chủ Sở hữu chiếm hữu tài sản (chủ sở hữu gián tiếp), hay nói cách khác là người thực tế chiếm hữu vật thông qua giao dịch có quyền chiếm hữu theo nội dung giao dịch đã xác lập (khoản 1 Điều 188).

Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ chấm dứt khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình hoặc chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác như bán, trao đổi, tặng cho v.v. hoặc theo các căn cứ được quy định từ Điều 242 đến Điều 244 BLDS.

Trong đời sống thường ngày xảy ra trường hợp có những người không phải là chủ sở hữu nhưng vẫn chiếm hữu tài sản đó. Điều 179 BLDS năm 2015 đã quy định chiếm hữu không chỉ được hiểu là một quyền năng thuộc quyền sở hữu mà là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Do đó, căn cứ vào chủ thể chiếm hữu có thể phân thành hai loại là chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu. Việc chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu không thể là căn cứ xác lập quyền sở hữu, trừ một số trường hợp được pháp luật quy định như đối với tài sản bị chôn giấu, bị vùi lấp, bị chìm đắm, tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên…

Hình minh họa. Quyền sở hữu theo quy định của BLDS 2015

Căn cứ vào nhận thức của người chiếm hữu đối với việc chiếm hữu tài sản thì chiếm hữu có thể phân thành chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình. Điều 180 BLDS quy định: “Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Căn cứ này có thể xuất phát từ thực tế chủ thể chiếm hữu đồng thời cũng chính là chủ sở hữu của tài sản; hoặc hiếm hữu được xác lập trên cơ sở được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản (Điều 187 BLDS); được chủ sở hữu chuyển giao tài sản thông qua giao dịch dân sự (Điều 188 BLDS). Ngoài ra, trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật, chiếm hữu của chủ thể không phải chủ sở hữu cũng được xác định là ngay tình. Ví dụ như trường hợp chiếm hữu đối với tài sản bị người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc bị thất lạc, gia cầm bị thất lạc… và chủ thể nhặt được tài sản, bắt được gia súc, gia cầm… đã thực hiện đầy đủ các thủ tục thông báo tìm kiếm theo quy định của pháp luật. Điều 181 BLDS quy định: “Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Như vậy, trước hết chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu không dựa trên bất kì căn cứ hợp pháp nào được pháp luật ghi nhận. Nhận thức của chủ thể chiếm hữu tài sản trong trường hợp này là biết rõ về việc chiếm hữu không có căn cứ hợp pháp của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm hữu; hoặc tuy về chủ quan họ không biết về việc này nhưng theo yêu cầu của pháp luật, bất kì chủ thể nào trong trường hợp có hành vi chiếm hữu tài sản tương ứng đều phải biết. d: một người biết rõ tài sản có được do trộm cắp nhưng vẫn mua từ người bán do muốn mua với giá rẻ; một người mua xe máy đã qua sử dụng cần phải thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu nhưng đã không thực hiện nên đã mua phải xe máy từ người đã chiếm đoạt trái phép tài sản thì tuy nhận thức của họ là hoàn toàn không biết nhưng việc chiếm hữu của họ vẫn được xác định là không ngay tình.

Ngoài ra, việc chiếm hữu còn được xác định theo tình trạng chiếm hữu liên tục (Điều 182) và chiếm hữu công khai (Điều 183). Theo đó, chiếm hữu liên tục được hiểu là “việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian mà không tranh chấp về quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của toà án hoặc cơ quan nhà nước thẩm quyền khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu. Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm, tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo nh ng, công dng và được người chiếm hữu bảo qun, giữ gìn ntài sản của cnh mình. Những tình trạng chiếm hữu này là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 BLDS, cũng như là căn cứ để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu cho chủ thể chiếm hữu tài sản.

Điều 184 quy định về suy đoán tình trạng và quyền của người chiếm hữu như sau: 1. Ngưi chiếm hu được suy đoán là ngay tình; người o cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh. 2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản tngười chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền.

Trong những điều kiện nhất định, nếu việc chiếm hữu là liên tục (Điều 190), công khai (Điều 191) và trong khoảng thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình còn được hưởng quyền xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Họ có thể trở thành chủ sở hữu các tài sản đó kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu.

2. Quyền sử dụng

Là quyền khai thác công dụng và khai thác những lợi ích vật chất của tài sản trong phạm vi pháp luật cho phép. Nguyên tắc chung là việc khai thác những giá trị sử dụng của tài sản

nhằm để thoả mãn những nhu cầu về sinh hoạt vật chất hoặc tinh thần cho bản thân mình.

Thực hiện quyền sử dụng còn là việc dựa vào tính năng của vật mà con người khai thác lợi ích vật chất của chúng để thoả mãn các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh.

Ngoài ra, việc khai thác lợi ích vật chất của tài sản còn bao gồm cả việc thu nhận những kết quả của tài sản do tự nhiên mang lại như hưởng trứng do gia cầm đẻ ra, hoa quả trên cây, gia súc nhỏ do mẹ chúng sinh ra…

Như vậy, việc sử dụng tài sản là một trong những quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của chủ sở hữu. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của tài sản theo ý chí tuỳ nghi của mình. Thông thường, chủ sở hữu trực tiếp sử dụng tài sản của mình nhưng có thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp đồng hợp pháp của chủ sở hữu.

Trong một số trường hợp khác mà pháp luật quy định, cơ quan hoặc tổ chức cũng có quyền sử dụng tài sản trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Cơ quan, tổ chức sử dụng tài sản bị trưng dụng.

Do sự phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật nên có trường hợp chủ sở hữu không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng những tài sản là các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Ví dụ: Việc sử dụng máy vi tính, xe ô tô, các thiết bị kĩ thuật khác… Trong trường hợp này chủ sở hữu phải thông qua người thứ ba để thực hiện quyền sử dụng tài sản thì mới khai thác được các lợi ích vật chất, tính năng của tài sản.

Tóm lại: Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp luật quy định cho chủ sở hữu (hoặc người chiếm hữu hợp pháp) được phép sử dụng các tài sản của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hoặc sản xuất, kinh doanh nhưng việc sử dụng đó không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, không được trái với đạo đức chung của xã hội.

Thông thường, khi chủ sở hữu muốn chuyển quyền sử dụng cho người khác thì phải chuyển luôn quyền chiếm hữu tài sản. Bởi lẽ, muốn khai thác công dụng của tài sản, trước hết người sử dụng phải thực hiện hành vi chiếm hữu. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có trường hợp chủ sở hữu cho sử dụng tài sản mà không chuyển quyền chiếm hữu. Ví dụ: Cho thuê ô tô mà người lái xe là người làm công việc của chủ sở hữu. Người sử dụng máy vi tính ngay tại nhà của chủ sở hữu… Theo nghĩa hẹp nhất thì quyền chiếm hữu thường được coi là tiền đề của quyền sử dụng.

3. Quyền định đoạt

Là một quyền năng của chủ sở hữu để quyết định về “số phận” của vật.

Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh (góc độ):

– Định đoạt về số phận thực tế của các vật (tức là làm cho vật không còn trong thực tế nữa) như: tiêu dùng hết, huỷ bỏ, hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với vật.

– Định đoạt về số phận pháp lí của vật là việc làm chuyển giao quyền sở hữu đối với vật từ người này sang người khác.

Thông thường, định đoạt về số phận pháp lí của vật phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế… thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời (trong hợp đồng gửi giữ); quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời hạn (trong hợp đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác bằng hợp đồng bán, đổi, cho…

Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với vật sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến vật đó. Ví dụ: Tiêu dùng hết tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Khi bán tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu của người đã bán nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài sản đó đối với người mua.

Ở hai hình thức định đoạt trên, chúng ta thấy rằng, trong việc định đoạt số phận thực tế của vật, chủ sở hữu chỉ cần bằng hành vi của mình tác động trực tiếp đến vật. Trong việc định đoạt về số phận pháp lí chủ sở hữu phải thiết lập với chủ thể khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức định đoạt này, BLDS đã quy định: Người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân sự. Nghĩa là, người đó phải có đầy đủ tư cách chủ thể. Trong những trường hợp tài sản ít giá trị (chủ yếu là động sản), việc thực hiện quyền định đoạt có thể bằng phương thức giản đơn như: Thoả thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản… nhưng trong những trường hợp pháp luật có quy định trình tự, thủ tục thì phải tuân theo những quy định đó (Điều 193 BLDS).

Để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu khi định đoạt tài sản, BLDS đã quy định việc uỷ quyền định đoạt. Chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản, người được | uỷ quyền phải thực hiện việc định đoạt theo phương pháp, cách thức phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu. Ngoài ra, vì lợi ích chung của xã hội và để bảo đảm ổn định giao lưu dân sự trong những trường hợp nhất định, Điều 196 BLDS còn quy định việc hạn chế quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Theo đó, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu sẽ bị hạn chế khi có quy định cụ thể của luật. Khi những tài sản đem bán, đổi là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hoá thì Nhà nước có quyền ưu tiên mua. Trong trường hợp tổ chức, cá nhân có quyền ưu tiên mua đối với tài sản nhất định theo quy định của pháp luật thì khi bán tài sản, chủ sở hữu phải dành quyền ưu tiên mua cho tổ chức, cá nhân đó.

Trong thực tế, có những trường hợp tuy không phải là chủ sở hữu, chủ sở hữu không uỷ quyền, việc định đoạt có thể không theo ý chí của chủ sở hữu nhưng theo quy định của pháp luật những người đó vẫn có quyền định đoạt. Đó là việc cơ quan, tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật, chấp hành viên kí hợp đồng bán đấu giá để thi hành án; hiệu cầm đồ được quyền bán tài sản nếu hết thời hạn đã thoả thuận mà người vay không trả được tiền vay.

Trong nội dung của quyền sở hữu, từng quyền năng có thể do người không phải là chủ sở hữu thực hiện nhưng việc thực hiện đó chủ yếu không mang tính chất độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu. Chỉ có chủ sở hữu mới có quyền thực hiện một cách độc lập không phụ thuộc vào người khác. Việc quy định quyền của người không phải là chủ sở hữu nói lên tính năng động của quyền sở hữu luôn ở trong thế vận động trong những trường hợp nhất định. Chế định quyền sở hữu với ba quyền năng cơ bản không chỉ được xây dựng trên nguyên tắc quyền của chủ sở hữu chiếm vị trí trung tâm, là xuất phát điểm để quy định các quy chế pháp lí tương ứng mà còn có cả những quy định với những xuất phát điểm từ góc độ tài sản.

Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có mối liên quan mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng lại mang một ý nghĩa khác nhau. Cụ thể, quyền chiếm hữu là tiền đề quan trọng cho hai quyền kia nhưng quyền sử dụng lại có ý nghĩa thiết thực, vì chỉ có thông qua quyền năng này chủ sở hữu mới khai thác được lợi ích, công dụng của vật để thoả mãn các nhu cầu cho mình, còn quyền định đoạt lại xác định ý nghĩa pháp lí quan trọng nhất của chủ sở hữu.

5/5 - (94 bình chọn)

 
® 2024 LawFirm.Vn - Thông tin do LawFirm.Vn cung cấp không thay thế cho tư vấn pháp lý. Nếu bạn yêu cầu bất kỳ thông tin nào, bạn có thể nhận được cuộc gọi điện thoại hoặc email từ một trong những Quản lý của chúng tôi. Để biết thêm thông tin, vui lòng xem chính sách bảo mật, điều khoản sử dụng, chính sách cookie và tuyên bố miễn trừ trách nhiệm của chúng tôi.
Có thể bạn quan tâm
Để lại câu trả lời

Trường "Địa chỉ email" của bạn sẽ không được công khai.

ZaloFacebookMailMap