1. Hạn chế phân chia di sản là gì?
Hạn chế phân chia di sản là một chế định pháp luật nhằm tạm hoãn việc phân chia di sản thừa kế trong những trường hợp cụ thể, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của một hoặc một số chủ thể liên quan.
Theo quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015, thời hạn hạn chế phân chia di sản trong trường hợp này không vượt quá 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Sau khi hết thời hạn nêu trên, nếu bên vợ hoặc chồng còn sống chứng minh được rằng việc chia di sản vẫn có thể gây tác động tiêu cực đến cuộc sống của mình và gia đình, thì họ có quyền đề nghị Tòa án gia hạn thêm một lần. Tuy nhiên, thời hạn gia hạn không quá 03 năm kể từ ngày hết hạn lần đầu.

2. Các trường hợp hạn chế phân chia di sản
Có những trường hợp cụ thể mà việc phân chia di sản bị hạn chế, như:
2.1. Theo ý chí của người lập di chúc
Nếu trong di chúc có quy định rằng di sản chỉ được phân chia sau một khoảng thời gian nhất định, thì di sản sẽ không được chia cho đến khi thời hạn đó kết thúc. Điều này thể hiện sự tôn trọng ý nguyện của người đã mất.
2.2. Theo thỏa thuận của những người thừa kế
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế đều đồng ý hoãn việc chia di sản sau một thời gian cụ thể, thì việc phân chia sẽ được tạm dừng theo thỏa thuận chung. Sự đồng thuận này giúp tránh những tranh chấp không cần thiết.
2.3. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người còn sống
Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên còn sống và đảm bảo rằng việc chia di sản không gây khó khăn cho cuộc sống của họ, tại khoản 3 Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy định: “Trong trường hợp việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống, gia đình thì vợ, chồng còn sống có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế phân chia di sản theo quy định của Bộ luật dân sự”.
Quy định trên được hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, cụ thể: Việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình theo quy định tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 661 của Bộ luật Dân sự là trường hợp người chết có để lại di sản, nhưng nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất…
Ví dụ 1: Trước khi kết hôn, anh A mua được một ngôi nhà cấp 4 có diện tích 35 m2. Sau đó anh A kết hôn với chị B và không nhập ngôi nhà này vào khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi sinh được một người con thì anh A chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh A yêu cầu chia di sản thừa kế là ngôi nhà của anh A. Chị B và con không có chỗ ở nào khác và cũng chưa có điều kiện để tạo lập chỗ ở khác. Ngôi nhà này lại không thể chia được bằng hiện vật. Trong trường hợp này việc chia di sản thừa kế là ngôi nhà sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị B và con.
Ví dụ 2: Anh C và chị D kết hôn với nhau và mua được ngôi nhà có diện tích 35 m2. Sau khi sinh được một người con thì anh C chết và không để lại di chúc. Bố mẹ của anh C yêu cầu chia di sản do anh C để lại là phần nhà của anh C trong ngôi nhà này. Chị D và con không có chỗ ở nào khác, trong khi đó ngôi nhà này nếu chia bằng hiện vật thì không bảo đảm cho việc sinh hoạt tối thiểu của chị D và con; nếu buộc chị D phải thanh toán bằng tiền phần thừa kế mà bố mẹ anh C được hưởng thì chị D cũng không có khả năng. Trong trường hợp này, việc chia di sản thừa kế phần nhà của anh C trong ngôi nhà có diện tích 35 m2 sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chị D và con.
Xem thêm: Hạn chế phân chia di sản của vợ chồng trong trường hợp một bên chết