Thành lập tổ chức tín dụng là thủ tục pháp lý nhằm xác lập tư cách chủ thể kinh doanh ngân hàng, bao gồm các bước, khâu, các thủ tục và giấy tờ pháp lý do người thành lập tổ chức tín dụng chuẩn bị. Có thể nói, pháp luật của các nước quy định khá chặt chẽ điều kiện thàh lập tổ chức tín dụng.
Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ, một ngân hàng được thành lập phải thỏa mãn nhiều điều kiện khác nhau, tùy thuộc nó là ngân hàng bang hay ngân hàng liên bang. Nếu ngân hàng được thành lập là ngân hàng bang, nghĩa là phạm vi hoạt động chủ yếu trong một bang nhất định thì nó phải đáp ứng các điều kiện của bang đó và do cơ quan quản lý ngân hàng của bang cấp phép. Trường hợp ngân hàng được thành lập là ngân hàng liên bang có phạm vi hoạt động ở nhiều bang nó phải tuân thủ các điều kiện của Liên bang và do Cục quản lý tiền tệ liên bang (có chức năng quản lý ngân hàng cấp liên bang) chấp thuận. Sở dĩ pháp luật các nước quy định điều kiện thành lập tổ chức tín dụng, nhất là các ngân hàng thương mại khắt khe như vậy là do mức độ ảnh hưởng của hoạt động ngân hàng tới đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nếu Nhà nước không kiểm soát được việc thành lập tổ chức tín dụng thì nguy cơ mất quyền kiểm soát nền kinh tế là rất dễ xảy ra.
Ở Việt Nam, việc thành lập tổ chức tín dụng được thực hiện qua hai bước:
Bước 1: Xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng;
Bước 2: Đăng ký kinh doanh, khai trương và hoạt động ngân hàng, trong đó Nhà nước kiểm soát rất chặt chẽ bước thứ nhất – tức là khâu xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không định nghĩa thế nào là giấy phép mà mô tả nội dung, các bộ phận của giấy phép. Theo đó, Giấy phép bao gồm Giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng, Giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước cấp. Văn bản của Ngân hàng Nhà nước về sửa đổi, bổ sung Giấy phép là một bộ phận không tách rời của Giấy phép. Ở nội dung này, chúng ta tập trung làm rõ điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng.

Khác so với Luật các tổ chức tín dụng năm năm 1997 (sửa đổi 2004), Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng bao gồm: các điều kiện được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tín dụng trong nước, Tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng và Điều kiện cấp Giấy phép đối với ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô. Điều kiện để thành lập tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay bao gồm:
Thứ nhất, phải có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định. Chính phủ có thẩm quyền quy định mức vốn pháp đối với từng loại hình tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tín dụng ở Việt Nam hiện nay được quy định cụ thể tại Nghị định 86/2019/NĐ-CP của Chính phủ ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định về nghĩa vụ duy trì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng Việt Nam không đạt được như yêu cầu của pháp luật đã dẫn đến việc Chính phủ phải “gia hạn tăng vốn pháp định”.
Thứ hai, chủ sở hữu hoặc thành viên sáng lập phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có khả năng tài chính để góp vốn. Khác so với các lĩnh vực khác, các chủ sở hữu hoặc thành viên sáng lập phải có khả năng tài chính để góp vốn là nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng ngay từ khi chuẩn bị thành lập.
Thứ ba, người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện về đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác cũng như phải cư trú ở Việt Nam trong thời gian quản lý điều hành tổ chức tín dụng. Quy định này nhằm bảo đảm cho tổ chức tín dụng được vận hành một cách có hiệu quả, bởi lẽ, hoạt động kinh doanh ngân hàng mang tính chuyên môn nghiệp vụ và tính quốc tế hóa cao.
Thứ tư, phải có Điều lệ phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều lệ là “Hiến pháp” của doanh nghiệp, là cơ sở để giải quyết các vấn đề phát sinh trong nội bộ của tổ chức tín dụng, là công cụ bảo vệ quyền lợi cho các thành viên/chủ sở hữu tổ chức tín dụng. Về nguyên tắc, tổ chức tín dụng được quyền quy định nội dung điều lệ, nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Khi tham gia vào một tổ chức tín dụng bất kỳ, nhà đầu tư cần dành thời gian nghiên cứu kỹ Điều lệ của tổ chức tín dụng để hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể gặp phải.
Thứ năm, phải có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng. Luật các tổ chức tín dụng công nhận và bảo đảm quyền hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Đối với tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài để được cấp Giấy phép ngoài việc đáp ứng các điều kiện trên còn phải tuân thủ thêm các điều kiện:
– Tổ chức tín dụng nước ngoài được phép thực hiện hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật của nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài đặt trụ sở chính;
– Hoạt động dự kiến xin phép thực hiện tại Việt Nam phải là hoạt động mà tổ chức tín dụng nước ngoài đang được phép thực hiện tại nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài đặt trụ sở chính;
– Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có hoạt động lành mạnh, đáp ứng các điều kiện về tổng tài sản có, tình hình tài chính, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
– Tổ chức tín dụng nước ngoài phải có văn bản cam kết hỗ trợ về tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, hoạt động cho tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài; bảo đảm các tổ chức này duy trì giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của Luật này;
– Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã ký kết thỏa thuận với Ngân hàng Nhà nước về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng, trao đổi thông tin giám sát an toàn ngân hàng và có văn bản cam kết giám sát hợp nhất theo thông lệ quốc tế đối với hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài.
Đối với Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để được cấp Giấy phép ngoài các điều kiện quy định tại các điểm a, b, c và đ khoản 1 và các điểm b, c, d và e khoản 2 Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 còn phải có thêm điều kiện “Ngân hàng nước ngoài phải có văn bản bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ và cam kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam; bảo đảm duy trì giá trị thực của vốn được cấp không thấp hơn mức vốn pháp định và thực hiện các quy định về bảo đảm an toàn của Luật các Tổ chức tín dụng”.
Đối với tổ chức tín dụng là ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô, Ngân hàng Nhà nước sẽ quy định riêng trên tinh thần khuyến khích các tổ chức tín dụng này phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho những đối tượng gặp khó khăn về vốn.
Về thủ tục xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, người thành lập tổ chức tín dụng phải chuẩn bị đầy đủ hồ sơ để trình Ngân hàng Nhà nước cấp phép. Trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho tổ chức đề nghị cấp phép. Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép hoặc từ chối cấp Giấy phép cho văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Trường hợp từ chối cấp Giấy phép, Ngân hàng Nhà nước phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Sau khi được cấp Giấy phép, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đăng ký kinh doanh; văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng phải đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng phải công bố trên phương tiện thông tin của Ngân hàng Nhà nước và trên một tờ báo viết hằng ngày trong 03 số liên tiếp hoặc báo điện tử của Việt Nam ít nhất 30 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động các thông tin sau đây:
– Tên, địa chỉ trụ sở chính của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng;
– Số, ngày cấp Giấy phép, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động và các hoạt động kinh doanh được phép thực hiện;
– Vốn điều lệ hoặc vốn được cấp;
– Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng, Tổng giám đốc (Giám đốc) chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Trưởng văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng;
– Danh sách, tỷ lệ góp vốn tương ứng của cổ đông sáng lập hoặc thành viên góp vốn hoặc chủ sở hữu của tổ chức tín dụng;
– Ngày dự kiến khai trương hoạt động.
Sau khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, đăng ký kinh doanh, công bố thông tin, tổ chức tín dụng được quyền khai trương hoạt động. Để khai trương hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng phải có đủ các điều kiện sau đây:
– Đã đăng ký Điều lệ tại Ngân hàng Nhà nước;
– Có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn điều lệ, vốn được cấp, có kho tiền đủ điều kiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, có trụ sở đủ điều kiện bảo đảm an toàn tài sản và phù hợp với yêu cầu hoạt động ngân hàng;
– Có cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, điều hành, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro, hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với loại hình hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
– Có hệ thống công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu quản lý, quy mô hoạt động;
– Có quy chế quản lý nội bộ về tổ chức, hoạt động của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), các phòng, ban chuyên môn nghiệp vụ tại trụ sở chính; quy chế nội bộ về quản lý rủi ro; quy chế về quản lý mạng lưới;
– Vốn điều lệ, vốn được cấp bằng đồng Việt Nam phải được gửi đầy đủ vào tài khoản phong tỏa không hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước ít nhất 30 ngày trước ngày khai trương hoạt động. Vốn điều lệ, vốn được cấp được giải tỏa khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã khai trương hoạt động;
– Đã công bố thông tin hoạt động theo quy định tại Điều 25 của Luật này.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng phải tiến hành khai trương hoạt động trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày được cấp Giấy phép; quá thời hạn này mà không khai trương hoạt động thì Ngân hàng Nhà nước thu hồi Giấy phép. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp Giấy phép phải thông báo cho Ngân hàng Nhà nước về các điều kiện khai trương hoạt động quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 trong thời gian ít nhất 15 ngày trước ngày dự kiến khai trương hoạt động; nếu không đáp ứng yêu cầu này thì Ngân hàng Nhà nước có quyền đình chỉ việc khai trương hoạt động của tổ chức tín dụng.