Luật tố tụng dân sự là ngành luật cụ thể của hệ thống pháp luật Việt Nam, luật tố tụng dân sự khác các ngành luật khác không chỉ ở đối tượng điều chỉnh mà còn ở cả phương pháp điều chỉnh của nó. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là tổng hợp những cách thức mà luật tố tụng dân sự tác động lên các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó.
Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cũng phụ thuộc vào tính chất và đặc điểm của các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó như phương pháp điều chỉnh của các ngành luật khác. Do đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự cơ bản là quan hệ giữa các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật như toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự với những người tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự như đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch nên luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ này bằng hai phương pháp mệnh lệnh và định đoạt.

Luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở chỗ quy định địa vị của toà án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án dân sự và các chủ thể khác trong tố tụng không giống nhau, các chủ thể khác đều phải phục tùng toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự. Các quyết định của toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác phải thực hiện, nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Sở dĩ pháp luật tố tụng dân sự quy định như vậy là xuất phát ở chỗ toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, giải quyết vụ việc dân sự, tổ chức thi hành án dân sự và kiểm sát các hoạt động tố tụng. Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan này phải có những quyền lực pháp lý nhất định đối với các chủ thể tố tụng khác. Do đó, ở các quan hệ do luật tố tụng dân sự điều chỉnh không có sự bình đẳng giữa toà án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự với các chủ thể khác.
Tuy vậy, ngoài phương pháp mệnh lệnh, luật tố tụng dân sự còn điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng bằng phương pháp định đoạt vì các quan hệ pháp luật nội dung toà án có nhiệm vụ giải quyết trong các vụ việc dân sự là các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Các chủ thể của các quan hệ này có quyền tự quyết định quyền lợi của mình khi tham gia vào các quan hệ đó. Trong vụ việc dân sự, các chủ thể đó là đương sự. Do vậy, để bảo đảm quyền tự quyết định quyền lợi của các đương sự trong tố tụng, luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ giữa toà án với các đương sự phát sinh trong quá trình tố tụng bằng phương pháp định đoạt. Theo đó, các đường sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước toà án. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp các đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án giải quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, các đương sự vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thoả thuận giải quyết những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa.
Như vậy, luật tố tụng dân sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng bằng hai phương pháp mệnh lệnh và định đoạt. Trong đó, phương pháp điều chỉnh chủ yếu nhất là phương pháp mệnh lệnh.