1. Theo hình thức Hiến pháp
Hiến pháp được phân thành hai loại: Hiến pháp thành văn và Hiến pháp không thành văn.
– Hiến pháp thành văn: là hiến pháp có các quy định được viết thành văn bản và được Nhà nước tuyên bố hoặc ghi nhận là luật cơ bản của Nhà nước. Tuyệt đại đa số Hiến pháp các nước trên thế giới hiện nay là Hiến pháp thành văn. Hiến pháp Việt Nam là Hiến pháp thành văn.
– Hiến pháp không thành văn: là tổng thể các văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật được hình thành theo tập tục truyền thống, các án lệ của Tòa án tối cao có liên quan đến việc tổ chức quyền lực Nhà nước, nhưng không được Nhà nước tuyên bố hoặc ghi nhận là luật cơ bản của Nhà nước. Hiện nay chỉ có 3 nước trên thế giới có Hiến pháp không thành văn, đó là Anh, Niudilân và Ixraen.
2. Theo tính chất nội dung của Hiến pháp
Hiến pháp được phân thành hai loại: Hiến pháp cổ điển và Hiến pháp hiện đại.
– Hiến pháp cổ điển: là những Hiến pháp thường được ban hành trước cách mạng tháng Mười Nga. Hiến pháp cổ điển có đối tượng điều chỉnh hẹp, chủ yếu là những quan hệ xã hội liên quan đến việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Trong nội dung Hiến pháp chứa đựng một số lượng hạn chế các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và hầu như không có điều khoản nào quy định về quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực kinh tế. Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1787 là một điển hình của Hiến pháp cổ điển.
– Hiến pháp hiện đại: là những Hiến pháp thường được thông qua sau cách mạng tháng Mười Nga. Các bản Hiến pháp này có đối tượng điều chỉnh rộng hơn, có nhiều nội dung dân chủ hơn. Trong nội dung Hiến pháp chứa đựng một số lượng lớn các quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 là một ví dụ điển hình về Hiến pháp hiện đại. Chương V của Hiến pháp Việt Nam năm 1992 có đến 34 điều (từ điều 49 đến điều 82) quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.

3. Căn cứ vào thủ tục sửa đổi Hiến pháp
Hiến pháp được phân thành hai loại: Hiến pháp nhu tính và Hiến pháp cương tính.
– Hiến pháp nhu tính: là Hiến pháp được sửa đổi theo thủ tục như một đạo luật thông thường. Các Hiến pháp không thành văn cũng chính là những Hiến pháp nhu tính. Hiến pháp Anh là Hiến pháp nhu tính, được sửa đổi bởi Nghị viện Anh bằng cách ban hành đạo luật mới thay thế đạo luật cũ.
– Hiến pháp cương tính: là Hiến pháp có thủ tục sửa đổi chặt chẽ hơn. Hiến pháp cương tính thông thường được sửa đổi khi có ít nhất hai phần ba hoặc ba phần tư tổng số các đại biểu cơ quan lập pháp biểu quyết tán thành. Có những bản Hiến pháp cương tính được sửa đổi bằng Nghị viện lập hiến (Quốc hội lập hiến) hoặc đưa ra trưng cầu ý dân.
Các bản Hiến pháp của Việt Nam đều là Hiến pháp cương tính, trong đó Hiến pháp Việt Nam năm 1946 quy định trình tự sửa đổi Hiến pháp rất chặt chẽ như sau: Hiến pháp do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu; Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi; Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.
4. Căn cứ vào bản chất Hiến pháp
Hiến pháp được phân thành hai loại: Hiến pháp tư sản và Hiến pháp xã hội chủ nghĩa.
– Hiến pháp tư sản do Nhà nước tư sản ban hành. Sự ra đời của Hiến pháp tư sản gắn liền với thắng lợi của cách mạng tư sản, thể hiện bản chất của giai cấp tư sản. Hiến pháp tư sản tuyên bố sự tồn tại chế độ đa nguyên, đa đảng trong xã hội tư sản, ghi nhận, củng cố quyền chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất và hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, ấn định một cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc “phân chia quyền lực”. Các Hiến pháp tư sản có đối tượng điều chỉnh hẹp, chủ yếu quy định tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản.
– Hiến pháp xã hội chủ nghĩa do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành. Sự ra đời của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa gắn liền với thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Hiến pháp xã hội chủ ghi nhận, khẳng định các nguyên tắc cơ bản của đường lối quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc, thể hiện bản chất nhân đạo, tính nhân dân sâu sắc của chế độ mới; ghi nhận, khẳng định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa xác định một cơ cấu tổ chức Nhà nước dựa trên nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả quyền lực Nhà nước tập trung ở cơ quan đại diện ở trung ương và địa phương do nhân dân trực tiếp bầu ra, đồng thời quy định một sự phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng, rành mạch và hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân.