Đặt cọc và trả trước là hai thuật ngữ rất phổ biến khi giao kết hợp đồng nhưng lại dễ gây nhầm lẫn. Khi nào được xem là tiền đặt cọc và khi nào được xem là tiền trả trước? Dưới đây là những điểm khác nhau cơ bản giữa tiền đặt cọc và tiền trả trước:
1. Khái niệm
Đặt cọc: Theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự 2015 thì có thể hiểu đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.
Tiền trả trước: Pháp luật hiện hành không có quy định về việc “trả tiền trước”. Tuy nhiên, trong việc áp dụng thực tiễn thì có thể hiểu đơn giản, trả tiền trước là việc bên có nghĩa vụ trả tiền tiến hành trả trước một khoản tiền cho bên có quyền. Có thể hiểu đây chỉ là việc thực hiện trước một phần nghĩa vụ, cụ thể là chuyển giao trước một phần khoản tiền.
2. Bản chất của đặt cọc
Đặt cọc là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đi kèm với nó là biện pháp chế tài.
Trả tiền trước không phải là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Do đó mặc nhiên sẽ không có chế tài nếu các bên không có quy định biện pháp chế tài cho hành vi vi phạm nghĩa vụ trả tiền trước. Đây là điểm khác biệt chính giữa đặt cọc và trả tiền trước, có ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi tài sản của các bên trong hợp đồng.
3. Hậu quả pháp lý
Đối với đặt cọc:
+ Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền;
+ Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
+ Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. (khoản 2 Điều Điều 328 BLDS 2015)
Do bản chất của đặt cọc là thỏa thuận dân sự nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giữa các bên nên các bên có thể thỏa thuận phạt cọc gấp 2 đến nhiều lần giá trị tài sản đặt cọc và thỏa thuận phạt cọc này phải ghi trong hợp đồng, đây được xem như chế định phạt vi phạm hợp đồng.
Đối với trả tiền trước:
Khi có bên vi phạm nghĩa vụ hay không tiến hành giao kết hợp đồng như ý chí ban đầu thì khoản tiền trả trước về nguyên tắc sẽ được hoàn trả lại cho bên đã trả và sẽ không chịu bất cứ khoản phạt cọc nào. Điểm này khác hoàn toàn so với hậu quả pháp lý của biện pháp đặt cọc như đã đề cập ở phần trên.