Những điều khoản và nguyên tắc chung của hiệp định GATS
1. Phần mở đầu
Thương mại dịch vụ là một trong những lĩnh vực tăng rất nhanh trong các hoạt động kinh tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới. Hiện nay, dịch vụ chiếm 60% sản xuất của thế giới, thương mại dịch vụ qua biên giới chiếm tới 22% tổng giá trị buôn bán toàn thế giới, vẫn tiếp tục tăng nhanh trong những thập niên qua và đã tạo ra 30% việc làm cho toàn thế giới.
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) là một hệ thống các nguyên tắc, quy định pháp lý đa phương đã được thỏa thuận để áp dụng cho lĩnh vực thương mại dịch vụ. Dịch vụ là một thứ hàng hóa chủ yếu tồn tại dưới dạng phi vật chất. như y tế, viễn thông, giáo dục đào tạo, phân phối, ngân hàng…, do con người cung cấp. Và để bán – mua, xuất – nhập khâu dịch vụ thì trong nhiều trường hợp phải có con người di chuyển để tải các dịch vụ đó đến người tiêu dùng dịch vụ – tức là người đó phải ra hoặc vào một quốc gia khác – để thực hiện hoạt động dịch vụ đó.
Mặc dù đã tiến hành các cuộc đàm phán, thảo luận trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ, nhưng GATS đã không đạt được thỏa thuận trong bốn vấn đề: a. Viễn thông cơ bản; b. Vận tải hàng hải; c. Dịch vụ tài chính; d. Di chuyển sức lao động.
Thực tế có sáu vàn đề được thương lượng ngay sau khi WTO hoạt động chính thức: (i) Trợ cấp; (ii) Mua sắm của chính phủ; (iii) Các biện pháp tự vệ; (iv) Dịch vụ chuyên ngành, tập trung chủ yếu vào vấn đề kế toán; (v) Điều kiện tiêu chuẩn cấp giấy phép; (vi) Thương mại và môi trường.
Tại Hội nghị cấp Bộ trưởng lần thứ nhất tại Vingapo tháng 12-1996, các bộ trưởng bày tỏ việc thực hiện những mục tiêu đã được thông qua tại Marrakesh nhằm thương lượng về vấn đề mở cửa thị trường cho lĩnh vực dịch vụ tài chính vận tải, di chuyển sức lao động, viễn thông cơ bản. Tuy nhiên, quá trình thương lượng cho thấy còn rất nhiều khó khản trong thương mại dịch vụ.
Những kết quả đạt được trong lĩnh vực dịch vụ cần thiết phải kéo dài quá trình đàm phán sau thời hạn quy định, ví dụ thương lượng về dịch vụ vận tải biển đã bị hoãn lại vào năm 1996, mặc dù các nhà thương lượng đã có thể thỏa thuận với nhau về một số điểm. Thương lượng về vấn đề dịch vụ tài chính, mặc dù không có sự tham gia của Mỹ, cũng đã đạt được một hiệp định tạm thời vào tháng 7/1995, và các nước thành viên sẽ xem xét lại những cam kết vào cuối năm 1995 để đưa ra được đề nghị tốt hơn.
Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng nhằm đạt được mức độ tự do hoá cao hơn trong lĩnh vực dịch vụ trên cơ sở có đi có lại với sự linh hoạt hợp lý hơn cho vòng đàm phán tiếp theo, được tiến hành tháng 1-2000. Vì vậy các bộ trưởng hy vọng đạt được một hiệp định với các điều khoản MFN, dựa trên những cam kết mở rộng hơn nữa thị trường và những cam kết về đối xử quốc gia.
Như vậy, các bộ trưởng đã chính thức tuyên bố các nước thành viên: (1) Đạt được Hiệp định về viễn thông cơ bản vào năm 1997; (ii) Nối lại thương lượng về dịch vụ tài chính vào tháng 4-1997 với mục đích đạt được những cam kết về mở cửa thị trường ở mức độ rộng lớn hơn trong thời gian đã được thỏa thuận; (iii) Các vấn đề liên quan đến kế toán thuộc nhóm dịch vụ chuyên ngành được hoàn tất vào cuối năm 1997; (iv) Cần thiết phải tiến hành nhiều hơn nữa các công việc phân tích liên quan đến các biện pháp tự vệ trong trường hợp khẩn cấp, đến vấn đề mua sắm của chính phủ trong lĩnh vực dịch vụ và trợ cấp.
GATS gồm ba trụ cột chủ yếu: (i) Những điều khoản chung; (ii) Danh mục các cam kết sơ bộ về tự do hóa thương mại dịch vụ; (iii) Các phụ lục liên quan đến những điều kiện cụ thể của các lĩnh vực riêng biệt.
2. Những điều khoản và nguyên tắc chung của hiệp định GATS
2.1. Cơ sở chung của GATS
GATS bao quát toàn bộ các lĩnh vực dịch vụ, ngoại trừ lĩnh vực cung cấp dịch vụ nhằm thực hiện chức năng của chính phủ. Các điều khoản của Hiệp định quy định phạm vì những quan điểm, nguyên tắc, luật lệ nhằm đạt được mục tiêu tự do hóa thương mại dịch vụ. Các điều khoản này liên quan đến phạm vi thỏa thuận về trách nhiệm chung, nguyên tắc, những cam kết cụ thể và tự do hoá từng bước, những điều khoản về thể chế và những điều khoản cuối cùng.
Những điều khoản về thể chế bao gồm việc thành lập Hội đồng Thương mại dịch vụ (Council of Trade in Service), nhằm thúc đẩy hoạt động của Hiệp định và tiếp tục thực hiện các mục tiêu của GATS. Hiện nay, các cơ quan trực thuộc bao gồm: (i) Nhóm đàm phán về viễn thống cơ bản; (ii) Nhóm đàm phán về di chuyển sức lao động; (ii) Nhóm đàm phán về dịch vụ vận tải biển; (iv) Uỷ ban về thương mại dịch vụ tài chính; (v) Nhóm công tác về dịch vụ chuyên ngành.
Có những trách nhiệm và những nguyên tắc chung được áp dụng cho toàn bộ các phân ngành dịch vụ, bất kể những lĩnh vực đó có được đề cập trong danh mục các cam kết của một nước thành viên hay không. GATS đưa ra ba nguyên tắc cơ bản là:
Thứ nhất là nguyên tắc không phân biệt đối xử gồm quy chế (a) MFN, tức là nếu một thành viên mở cửa một lĩnh vực dịch vụ cho nhà đầu tư của một nước cụ thể thì thành viên đó sẽ phải dành cơ hội đồng đều cho tất cả các nhà cung ứng dịch vụ đồng loại của các thành viễn khác: cua WTO và (b) Quy chế dãi ngộ quốc gia (NT), tức là cam kết đối xử với các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài không kém so với các nhà cung ứng dịch vụ trong nước khi họ đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà nước chủ nhà đưa ra. Nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các phân ngành dịch vụ, nhưng các thành viên được phép tạm thời miễn áp dụng nguyên tắc này với một số phản ngành đặc biệt. Tuy vậy, các thành viên có thể quy định rõ trường hợp miễn trừ MFN trong danh mục riêng. Sự miễn trừ MFN này sẽ được áp dụng tối đa là 10 năm và được xem xét lại sau thời gian năm nām.
Thứ hai là cam kết ràng buộc đối với việc mở cửa thị trường. Đó là mức độ cam kết mở cửa thị trường đối với mỗi phân ngành dịch vụ những hạn chế đối với sự tham gia của các đối tác nước ngoài) và các hạn chế có thể có đôi với quy chế NT trong một số phân ngành nhất định (tức là có một số ưu đãi dành cho các nhà cung ứng dịch vụ trong nước nhưng không dành cho các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài). Cam kết của các nước phải trải qua một quá trình đàm phán. Đây là quá trình tự do hoá từng bước được tiến hành thông qua hàng loạt các cuộc đàm phán mới. Các cam kết này chỉ có thể được thay đổi sau khi đã thương lượng với các bên liên quan. Đây chính là cơ sở để đảm bảo cho các nhà xuất khẩu dịch vụ nước ngoài, các nhà nhập khẩu trong nước và các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.
Thứ ba là nguyên tắc minh bạch, theo đó các thành viên phải đảm bảo tính minh bạch về mặt luật pháp, thiết lập các điểm thông tin dễ dàng cho các doanh nghiệp truy cập. Luật pháp trong lĩnh vực dịch vụ phải mang tính khách quan và hợp lý. Về nguyên tắc thanh toán quốc tế cho hoạt động dịch vụ không phải chịu bất kỳ sự hạn chế nào chỉ có một ngoại lệ là khi cán cân thanh toán gặp khó khăn.
2.2. Bốn thể thức cung ứng dịch vụ
Thương mại dịch vụ trong WTO cũng như trong các hiệp định thương mại khác thường được cung ứng thông qua bốn thể thức (Mode):
(i) Cung cấp qua biên giới (mode 1): đó là việc nhà cung cấp dịch vụ bán dịch vụ từ lãnh thổ của nước minh sang lãnh thổ của nước thành viên khác. Ở thể thức này, dịch vụ và tiền thanh toán dịch vụ có đi qua biên giới, còn con người (cả người bán và người mua dịch vụ) thì không. Ví dụ, giáo dục từ xa, cung ứng qua hệ thống viễn thông, hoặc qua bưu điện.
(ii) Tiêu dùng ngoài lãnh thổ (mode 2): là thể thức thương mại dịch vụ mà người tiêu dùng của một nước thành viên này tiêu dùng dịch vụ tại lãnh thổ nước thành viên khác. Trong thể thức này, người bán dịch vụ vẫn ở tại nước mình, chỉ có người mua dịch vụ hoặc tài sản là đi ra nước ngoài. Trong trường hợp này, không có di chuyển thể nhán. Ví dụ, người đi du học, du lịch, sửa chữa tàu thuyền nước ngoài.
(iii) Hiện diện thương mại (mode 3): đây là thể thức mà nhà cung cấp dịch vụ của một nước thành viên này thiết lập cơ sở cung cấp dịch vụ tại lãnh thổ của nước thành viên khác như chi nhánh, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài... Trong thể thức dịch vụ này, hiện diện thương mại mới là cơ sở cam kết, chứ không phải là hiện diện thể nhân. Ví dụ thành lập công ty liên doanh. 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ như ngân hàng ANZ, trường học quốc tế.
(iv) Hiện diện thể nhân (mode 4): đây là thể thức thương mại dịch vụ gắn liền với việc con người di chuyển từ nước này sang nước khác để cung cấp dịch vụ và việc di chuyển như vậy được gọi là di chuyển thể nhân. Ví dụ, giáo sư sang giảng bài, chuyên gia cao cấp sang làm việc ở nước ngoài (trợ giúp kỹ thuật).
Để phân biệt hai loại di chuyển lao động nói trên, WTO đưa ra những tiêu chí nhất định để xác định những người thuộc diện “di chuyển thể nhân”, gồm ba đối tượng chính: thứ nhất là những người lưu chuyển trong nội bộ công ty (intra (corporate transferee); thứ hai là khách kinh doanh (bussiness visitor) và người chào bán dịch vụ (service sales person); và thứ ba là nhà cung ứng dịch vụ theo hợp đồng (contractual services supplier).
Đối tượng của nhóm di chuyển trong nội bộ công ty chủ yếu liên quan tới 3 đối tượng là giám đốc điều hành, quản lý và chuyên gia. Đây là nhóm mà các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn đặc biệt quan tâm. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động của các công ty đa quốc gia thực sự mang tính toàn cầu: nhà máy được thành lập ở nhiều quốc gia khác nhau, nguyên liệu đầu vào có thể được nhập khẩu từ khắp nơi trên thế giới, các linh kiện của một cỗ máy có thể được gia công ở các quốc gia khác nhau, sản phẩm được tiêu thụ trên toàn thế giới. Và, nhân sự của công ty cũng được luân chuyển giữa những chi nhánh và các công ty con ở các quốc gia. Bởi vậy, yêu cầu về việc cho phép các nhân sự cao cấp của một công ty di chuyển giữa các quốc gia trong nội bộ công ty là một yêu cầu thiết yếu để bảo đảm hoạt động bình thường của công ty đó. Những quy kịch của một quốc gia vị c) chuyên thệ nhân là một trong những yếu tố để các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá mức độ hip dẫn của môi trường đầu tư của nước đó.