Những điều cần biết về cải cách thủ tục hành chính
1. Những tồn tại, hạn chế của thủ tục hành chính ở nước ta hiện nay
Thủ tục hành chính ở nước ta trước đây còn nhiều thủ tục, đòi hỏi nhiều giấy tờ, gây phiền hà cho nhân dân, nhất là đối với những người ít hiểu biết về quy định, trình tự công việc của Nhà nước. hủ tục còn nặng nề, nhiều khâu, nhiều cửa, nhiều cấp trung gian không cần thiết, không rõ ràng về trách nhiệm, trì trệ, không phù hợp với thời kỳ mở cửa, làm kìm hãm sự phát triển chung.
Hệ thống thủ tục hành chính thiếu thống nhất, thường thay đổi do có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính ban hành trong các văn bản pháp luật.
Qua quá trình cải cách cho đến nay, hệ thống thủ tục hành chính của Nhà nước ta đã đơn giản, gọn nhẹ hơn, nhiều thủ tục, nhiều khâu xin phép không cần thiết đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách nền hành chính, yêu cầu đổi mới thể chế kinh tế thì hệ thống thủ tục hành chính của nước ta vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nên cần tiếp tục thực hiện cải cách.
2. Sự cần thiết của việc cải cách thủ tục hành chính
Hệ thống thủ tục hành chính nước ta còn có những tồn tại và bất cập nhất định, phần nào làm ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước, gây phiền hà cho nhân dân và tổ chức trong việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của mình. hủ tục hành chính nặng nề, phiền hà là cơ hội cho nạn tham nhũng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; mặt khác, không khuyến khích được sự phát triển kinh tế, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào nước ta đầu tư, kinh doanh.
Xuất phát từ những hạn chế và bất cập nêu trên, yêu cầu của việc cải cách thủ tục hành chính đang được đặt ra cấp thiết và được xem là khâu đột phá của tiến trình cải cách hành chính nhà nước.
3. Các quy định của pháp luật về cải cách thủ tục hành chính
Nhằm khắc phục những bất cập và hạn chế của hệ thống thủ tục hành chính, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân thì việc cải cách thủ tục hành chính đã được đặt ra tại Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/01/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII: “Loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và quy định lệ phí…” và trước đó, Nghị quyết số 38-CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức đã lấy cải cách thủ tục hành chính trong 08 lĩnh vực làm khâu đột phá, bao gồm:
– Thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp;
– Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
– Xuất, nhập khẩu;
– Xuất, nhập cảnh;
– Cấp giấy phép xây dựng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở tại đô thị;
– Cấp phát vốn ngân sách nhà nước;
– Khiếu nại, tố cáo của công dân;
– Công chứng, hộ tịch và hộ khẩu.
Tiếp đó, để tiếp tục thực hiện cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng, Chính phủ đã ban hành các chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 và giai đoạn 2011 – 2020.
Mục tiêu và yêu cầu cải cách một bước thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện nay:
Mục tiêu và yêu cầu cải cách một bước thủ tục hành chính là phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc của công dân và tổ chức, cụ thể: Tiến hành phát hiện và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, chồng chéo rườm rà, phức tạp đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với công dân và tổ chức, xây dựng và thực hiện được các thủ tục giải quyết công việc đơn giản, rõ ràng, thống nhất đúng pháp luật và công khai, vừa tạo thuận tiện cho công dân và tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc, vừa có tác dụng ngăn chặn nạn cửa quyền, sách nhiễu và tham nhũng trong công chức nhà nước đồng thời bảo đảm được trách nhiệm quản lý nhà nước, giữ vững kỷ cương pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để tiến hành cải cách một bước thủ tục hành chính, trước mắt cần phải xúc tiến các công việc sau:
Tổ chức việc soát xét các thủ tục hành chính và các khoản phí, lệ phí đang áp dụng từ trung ương đến cơ sở; phân tích, đánh giá và phân thành các loại: loại phải bãi bỏ, loại phải sửa đổi, loại cần được hợp pháp hóa, loại cần được hợp nhất thành một văn bản, loại cần phải giữ nguyên. hủ trưởng các đơn vị phải trực tiếp kiểm tra và chỉ đạo triển khai công việc này.
Cải cách một bước thủ tục hành chính cần phải tiến hành tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, tổ chức vì nhân dân, tổ chức là một trong những chủ thể tham gia trực tiếp vào quan hệ thủ tục hành chính, họ biết và không đồng ý về những điều, những gì cần phải thay đổi. Lấy ý kiến đóng góp của nhân dân cũng đồng thời là thực hiện quyền tự do dân chủ, thể hiện phương châm của Nhà nước ta là “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
Trong quá trình áp dụng thủ tục hành chính, phải triệt để tuân thủ các quy định của thủ tục hành chính, đồng thời xử lý nghiêm minh những hành vi cố ý làm trái pháp luật của các cá nhân được giao trách nhiệm.
Tiến hành thực hiện các công việc trên nhằm đạt mục đích:
Tinh giản thủ tục hành chính, loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, tạo sự thuận tiện, giảm chi phí cho nhân dân và các nhà kinh doanh, đồng thời bảo đảm sự quản lý theo pháp luật của các cơ quan hành chính, góp phần tích cực ngăn chặn và bài trừ tệ cửa quyền, sách nhiễu, và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và lệ phí, không được tùy tiện đặt thêm các thủ tục, thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính tập trung vào Chính phủ. Ngoài ra, chính quyền cấp tỉnh, thành phố được ban hành một số loại thủ tục hành chính mang tính chất đặc thù của địa phương theo ủy nhiệm của Chính phủ và các bộ. Điều này nhằm tránh được sự tùy tiện trong việc ban hành thủ tục hành chính đồng thời nâng cao được hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật.
Trước mắt, cần tập trung cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời sống, sản xuất kinh doanh của nhân dân và các doanh nghiệp. Đồng thời các lĩnh vực này đang có nhiều vướng mắc, có hiện tượng tiêu cực cần phải khắc phục kịp thời.
Bên cạnh đó, đi đôi với cải cách một bước thủ tục hành chính cần phải xây dựng quy chế công vụ và quy chế phối hợp giữa các cơ quan, công chức có trách nhiệm giải quyết công việc của nhân dân để thực hiện mô hình “một dấu, một cửa”, tạo sự thuận lợi cho các chủ thể có công việc cần giải quyết.
Mở rộng thông tin công việc của Nhà nước đến người dân, bảo đảm quyền được thông tin của nhân dân, chú trọng thông tin về thủ tục hành chính theo nguyên tắc thông tin rộng rãi, công khai đồng thời xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến của nhân dân đặc biệt là các đối tượng chính phải chấp hành thủ tục.
Như vậy, có thể thấy cải cách thủ tục hành chính đòi hỏi cao về tính khoa học, tính hợp lý. Mặt khác, nó còn liên quan đến nhiều vấn đề cần phải giải quyết đồng bộ, do vậy, cải cách thủ tục hành chính không chỉ là công việc của hệ thống hành chính nhà nước mà đòi hỏi có sự phối hợp của tất cả các cấp, các ngành liên quan, các cán bộ gương mẫu, liêm khiết, có năng lực, và sự tham gia tích cực của nhân dân đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ sung cũng như kiểm soát các cơ quan, công chức trong việc chấp hành thủ tục hành chính và quy chế công vụ đã ban hành. Có như vậy thì cải cách thủ tục hành chính mới thực sự có hiệu quả cao và sớm được hoàn thiện.
4. Những thành tựu đã đạt được sau một thời gian cải cách thủ tục hành chính
Sau gần 30 năm kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 38-CP ngày 04/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, trong đó công cuộc cải cách thủ tục hành chính được xem là khâu đột phá, đặc biệt là quá trình thực hiện 02 Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và 2011-2020, ở mức độ tổng quát, có thể nhận định cải cách thủ tục hành chính đạt được một số thành tựu nhất định. hủ tục hành chính đã bước đầu chuyển mình theo hướng phục vụ nhân dân, vì sự thuận tiện của nhân dân, giảm bớt được sự phiền hà, sách nhiễu, chi phí và thời gian cho nhân dân. Đây được xem là một thành tựu quan trọng bước đầu đáng ghi nhận. Trong hầu hết các lĩnh vực có cải cách, nói chung thủ tục hành chính đã được đổi mới theo hướng thuận lợi cho nhân dân và doanh nghiệp, từng bước xóa bỏ tình trạng thủ tục hành chính chỉ dành sự thuận lợi cho cơ quan nhà nước, đẩy khó khăn cho nhân dân. Cụ thể được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, những công việc của người dân và doanh nghiệp được quy về một đầu mối (chỉ một cơ quan nhận yêu cầu và tổ chức giải quyết). Những thủ tục quá rườm rà, phức tạp, không cần thiết đã được bãi bỏ, những thủ tục cần được thu gọn đã được thu gọn lại.
Điển hình nhất là việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, trước khi cải cách thì theo Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty và các văn bản liên quan, chủ doanh nghiệp muốn thành lập một doanh nghiệp phải thực hiện 02 bước sau: thủ tục xin phép thành lập; thủ tục đăng ký kinh doanh và đăng báo công khai. Những thủ tục này phải đăng ký ở các đầu mối khác nhau, trong đó mỗi thủ tục phải qua nhiều cửa. Tóm lại, để thành lập được một doanh nghiệp thì nhà đầu tư phải qua nhiều cửa với nhiều con dấu, tốn nhiều chi phí mà thời gian kéo dài hàng năm gây nên tình trạng thất vọng, nản chí cho một số nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Sau khi cải cách, rất nhiều thủ tục phiền hà nói trên đã được loại bỏ, đặc biệt từ khi Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp (Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/6/1999) thay thế cả hai đạo luật cũ. Theo Luật Doanh nghiệp mới thì thủ tục thành lập doanh nghiệp chỉ còn một bước là đăng ký kinh doanh và đăng báo công khai, làm thủ tục đăng ký tại một cửa duy nhất đó là Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Như vậy, thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp đã được rút gọn đáng kể, tạo sự thuận lợi, và môi trường đầu tư thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư. Thêm vào đó, ngày 03/12/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 bãi bỏ 84 loại giấy phép không cần thiết hiện đang tồn tại trong các ngành quản lý nhà nước. Bằng quyết định này và các văn bản ban hành sau đó, có thể nói, Nhà nước đã giảm một lượng lớn công việc về thủ tục hành chính không cần thiết cho các nhà đầu tư trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Năm 2019, Chính phủ đã tiếp tục bãi bỏ một số loại giấy phép của các ngành, các cấp nhằm làm thông thoáng hơn nữa môi trường đầu tư ở nước ta. Có thể thấy, đó là những kết quả và những tín hiệu đáng mừng cho giới đầu tư kinh doanh của Việt Nam cũng như các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định về giao dịch có bảo đảm và thực hiện việc đăng ký giao dịch có bảo đảm tại một hệ thống cơ quan thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Hệ thống cơ quan này được ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đăng ký giao dịch ngày càng lớn, đa dạng và phong phú khi nền kinh tế thị trường Việt Nam ngày một phát triển sôi động. Bằng việc đơn giản hóa thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm này chắc chắn sẽ tạo điều kiện để kinh tế, xã hội vận hành một cách an toàn và hiệu quả hơn; đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội ngày một đi vào chiều sâu ở Việt Nam.
Thứ hai, hạn chế tối đa việc ban hành các thủ tục hành chính của cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp được luật giao, chính từ việc có nhiều cơ quan thuộc các cấp chính quyền có thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính mới tạo ra sự thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, và thay đổi một cách tùy tiện. Hiện nay, tình trạng này về cơ bản đã được khắc phục như việc quy định các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không được ban hành các quy định về đăng ký kinh doanh áp dụng riêng cho ngành hoặc địa phương mình, thêm nữa, các thủ tục, trình tự giải quyết công việc cho nhân dân và doanh nghiệp hầu hết được quy định một cách rõ ràng, nhất quán trong phạm vi toàn quốc. Trong hầu hết các lĩnh vực có cải cách thủ tục hành chính, đến nay, Chính phủ đều đã ban hành được văn bản quy định về thủ tục giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, hồ sơ, giấy tờ có liên quan tới việc giải quyết công việc của nhân dân hầu hết đều được mẫu hóa một cách thống nhất (chỉ do các cơ quan ở cấp trung ương quy định mẫu). Điều này hạn chế tối đa hiện tượng cơ quan thẩm định hồ sơ viện cớ hồ sơ chưa rõ ràng, đầy đủ để hạch sách, gây khó khăn, tạo ra sự lành mạnh trong việc giải quyết công việc của người dân, đồng thời củng cố hơn nữa niềm tin của người dân với chính quyền.
Thứ tư, trình tự, lệ phí giải quyết công việc ở hầu hết các cơ quan đều được công khai hóa tại trụ sở làm việc của cơ quan. hêm nữa, cán bộ, công chức tiếp công dân để giải quyết công việc của họ về cơ bản đã được bố trí đủ và thường trực, tránh sự gián đoạn trong giải quyết công việc. Trong các hướng dẫn thi hành các văn bản có liên quan tới thủ tục hành chính của nhân dân mà các bộ ban hành hầu hết đều có quy định yêu cầu tất cả các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của nhân dân phải bố trí đầy đủ số cán bộ cần thiết để tiếp dân, bố trí thời gian giải quyết công việc của người dân cho phù hợp.
Nhà nước đã bãi bỏ nhiều thủ tục, nội dung kiểm soát không hợp lý, đặt niềm tin về sự tuân thủ pháp luật của công dân và đội ngũ doanh nghiệp, nâng cao ý thức tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của công dân và doanh nghiệp về công việc của mình.
Những thành tựu đạt được nêu trên là những thành tựu đáng ghi nhận bước đầu của tiến trình cải cách thủ tục hành chính ở nước ta. Những kết quả đó cho thấy bộ máy hành chính đã được củng cố, niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp vào bộ máy nhà nước ngày càng nâng cao.
5. Những tồn tại và hạn chế của công cuộc cải cách thủ tục hành chính
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nói trên, thì tiến trình cải cách thủ tục hành chính hiện nay còn bộc lộ những tồn tại và hạn chế. Tồn tại đó bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, song trước mắt là phải tìm ra biện pháp để khắc phục những yếu điểm đó. Những tồn tại và hạn chế của công cuộc cải cách thủ tục hành chính cụ thể được biểu hiện ở những điểm sau:
Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua vẫn chậm
Thủ tục hành chính là biểu hiện tập trung nhất của hoạt động mà Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế và xã hội, tuy nhiên hiện nay mức độ và phương pháp can thiệp của Nhà nước vào từng lĩnh vực quản lý cụ thể vẫn chưa đáp ứng một cách thỏa đáng. Việc xây dựng một số chính sách vĩ mô mang tính tổng thể vẫn còn bất cập, nặng về đề phòng, trói buộc, thiếu sự linh hoạt, chủ động và thông thoáng. Vì vậy, thủ tục hành chính nhìn chung vẫn chưa ổn định, chưa tạo được sức hút, giải phóng và khai thác mọi nguồn lực trong nước và quốc tế. Nhiều thủ tục hành chính bị coi là tồn đọng trước yêu cầu phát triển nhanh của đời sống thực tiễn.
Chất lượng một số dịch vụ công mà Nhà nước cung cấp cho nhân dân vẫn còn thấp, chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân và doanh nghiệp
Biểu hiện của điều tồn tại này là nạn tham nhũng, hạch sách, thái độ thờ ơ của một số cán bộ, công chức đối với công việc của người dân vẫn còn xảy ra. Khi có việc, người dân đi đến cơ quan chức năng để giải quyết, nhưng có nơi đối xử với họ như những người đi nhờ vả, đi xin. Mặt khác, phương tiện hiện đại đảm bảo cho một nền hành chính công hoạt động hiệu quả còn thiếu, vì thế, năng suất giải quyết công việc của cán bộ, công chức còn thấp.
Cải cách thủ tục hành chính chưa tương xứng trong tất cả các lĩnh vực; những khuyết tật trong nền hành chính gây ra những biến dạng trong sự vận hành của thủ tục hành chính mới
Đến nay, không phải mọi lĩnh vực tiến hành cải cách thủ tục hành chính đều đạt được những thành tựu cơ bản như đã nói ở phần trước, mà vẫn còn một số lĩnh vực như: khiếu nại, tố cáo, hộ khẩu, hộ tịch, đầu tư nước ngoài, v.v., mức độ cải cách thủ tục hành chính ở một số địa phương vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu thực tiễn của xã hội.
Một trong những yếu tố trở thành vật cản lớn, làm cho thủ tục hành chính mới khó đi vào đời sống đó là thực trạng hạn chế về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước. Việc mẫu hóa các giấy tờ trong hồ sơ giải quyết công việc của người dân trong nhiều lĩnh vực còn chưa được thực hiện đồng bộ, từ đó, gây ra nạn hạch sách, phiền hà cho những người có công việc cần giải quyết.
Như vậy, sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính, bên cạnh những thành quả đã đạt được thì còn bộc lộ một số tồn tại, bất cập. Những tồn tại đó đang có xu hướng làm cản trở tiến trình cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam, do đó, trong thời gian tới đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục có biện pháp kịp thời hơn nữa để khắc phục.
6. Nguyên nhân của tồn tại và hạn chế
Nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong cải cách thủ tục hành chính ở nước ta, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì vậy, việc làm rõ những nguyên nhân này có ý nghĩa thiết thực trong việc tìm ra định hướng để tháo gỡ.
6.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, do chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm, đôi lúc chưa nắm bắt được các quy luật của nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, vì vậy, việc nhận thức ở một số giai đoạn còn chưa đầy đủ, dẫn đến còn chậm trong việc tìm ra phương thức quản lý.
Do tính mới mẻ của hoạt động cải cách thủ tục hành chính phù hợp với một cơ chế kinh tế mới là một công việc chưa có tiền lệ ở nước ta. Vì vậy, trong những giai đoạn đầu tiên có sự thận trọng nhất định là điều khó tránh khỏi; mặt khác, thói quen quản lý theo kiểu cũ còn ăn sâu trong một bộ phận các cán bộ, công chức quản lý nhà nước, vốn là những người được đào tạo, kinh qua cơ chế cũ, việc đổi mới, thích nghi với cơ chế mới cần có nhiều thời gian hơn.
Thứ hai, nhiều vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, nhất là một số vấn đề về mức độ và phương thức can thiệp hợp lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, về vai trò của giới doanh nhân với sự phát triển kinh tế – xã hội, về lý thuyết thiết kế bộ máy nhà nước hiệu quả vẫn chưa có sự thống nhất, chưa đáp ứng đầy đủ đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
6.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do sự nhận thức của một số cơ quan có liên quan chưa thấy hết được tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác cải cách thủ tục hành chính đối với đòi hỏi của nhân dân và đất nước hiện nay, từ đó dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành chưa kịp thời. Hiện tượng này không chỉ diễn ra ở địa phương mà diễn ra ở ngay cả một số bộ, ngành.
Thứ hai, công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận, giải đáp và “dẫn đường” cho thực tiễn còn chưa được chú trọng đúng mức, ngay cả một số nhà khoa học đầu ngành cũng gặp nhiều lúng túng khi giải đáp các vấn đề của thực tiễn phát sinh trong cải cách thủ tục hành chính. Các nguồn lực như thời gian, công sức, kinh phí… dành cho hoạt động cải cách thủ tục hành chính còn chưa tương xứng.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính; chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức còn chưa hợp lý dẫn đến công cuộc cải cách hành chính thiếu động lực.
7. Phương hướng cải cách thủ tục hành chính ở nước ta trong thời gian tới
Để công việc cải cách thủ tục hành chính đạt hiệu quả tốt, tạo ra một môi trường thông thoáng, hài hòa về mức độ và phương thức can thiệp của Nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội, trong thời gian tới, chúng ta phải tập trung các nguồn lực về thời gian, công sức và
kinh phí để tìm ra các biện pháp cấp bách nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc sau một thời gian tiến hành cải cách thủ tục hành chính. Tuy vấn đề này không đơn giản, có thể khắc phục trong một sớm một chiều song không thể không khắc phục. Trên cơ sở đó, phương hướng đổi mới trong thời gian tới có thể là:
Dành các nguồn lực thỏa đáng, tập trung nghiên cứu, và đưa ra giải pháp tối ưu nhất về mức độ và phương thức can thiệp của Nhà nước vào các lĩnh vực kinh tế – xã hội. Bởi lẽ, sự can thiệp, quản lý của Nhà nước vào đời sống kinh tế – xã hội là tiền đề phát sinh của thủ tục hành chính, nếu không có sự nghiên cứu thấu đáo thì việc đưa ra các giải pháp cải cách thủ tục hành chính sẽ không có căn cứ chắc chắn về tính phù hợp của nó đối với đời sống thực tiễn.
Đây cũng chính là nguyên nhân của tình trạng một số thủ tục hành chính rơi vào trạng thái hoặc là kiểm soát quá chặt chẽ, cứng nhắc, hoặc là buông lỏng quá mức. Để khắc phục tình trạng này cần tiếp tục tổng rà soát tất cả các lĩnh vực có sự kiểm soát của Nhà nước bằng thủ tục hành chính, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt, mạnh dạn tiếp tục xã hội hóa một số lĩnh vực. Để làm tốt việc này, Nhà nước cần đầu tư tài chính hơn nữa cho giới khoa học chủ chốt nhằm phục vụ hoạt động sáng tạo của họ có hiệu quả. Khi thực hiện cần kiên trì và linh hoạt để có điều chỉnh kịp thời, vì thực tế cuộc sống bao giờ cũng phong phú hơn tư duy con người.
Cần quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa nhân viên và tập thể, giữa cơ quan nhà nước với nhân dân, xây dựng chính sách thỏa đáng nhằm khích lệ tinh thần làm việc của cán bộ, công chức. Nâng cao tính hiệu quả và chất lượng của các dịch vụ công. Tổng kết, đánh giá hiệu quả trong công việc của các cơ quan được giao nhiệm vụ, xem hệ thống cơ quan đó đã tương xứng với yêu cầu mà thực tiễn đòi hỏi chưa? Để từ đó có những điều chỉnh hợp lý nhất các nguồn lực, tránh sự lãng phí không cần thiết.
Cần quan tâm đúng mức về vấn đề lương, thưởng đối với những người chịu thiệt thòi từ cải cách thủ tục hành chính nói riêng và cải cách hành chính nói chung. Vì khi tiến hành cải cách, ít nhiều sẽ động chạm tới lợi ích của một bộ phận cán bộ, công chức, từ đó chính những trường hợp này đáng lẽ phải đi tiên phong trong cải cách thủ tục hành chính thì ngược lại, họ trở thành vật cản đối với tiến trình cải cách.
Tiếp tục mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực có sự kiểm soát của Nhà nước theo hướng giảm thiểu sự kiểm soát phi hiệu quả và không cần thiết, nhưng vẫn đảm bảo được vai trò quản lý của Nhà nước. Rút ngắn tối đa thời gian giải quyết các hồ sơ, công việc của người dân và doanh nghiệp, phù hợp với thực lực hiện có. Các loại giấy tờ trong hồ sơ của công dân hoặc doanh nghiệp có nội dung cần thẩm định thì đều phải được mẫu hóa thống nhất, tạo sự thuận lợi cho người dân và cơ quan khi giải quyết công việc. Mọi thủ tục, trình tự giải quyết, lịch làm việc, lệ phí cần niêm yết công khai tại trụ sở làm việc. Bố trí cán bộ, công chức có mặt thường xuyên để tiếp dân.
Xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với cán bộ, công chức để từ đó phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh đối với những người có hành vi vi phạm, có biểu hiện nhũng nhiễu, hách dịch trong mối quan hệ với người dân. Mặt khác, phải động viên, khen thưởng kịp thời những người có thành tích tốt trong công tác. Tiếp tục bồi dưỡng, trau dồi, nâng cao kiến thức nghiệp vụ lẫn đạo đức chính trị cho cán bộ, công chức.
Phân công nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho các cấp, các ngành, cấp, ngành nào có lợi thế hơn về quản lý, chuyên môn thì mạnh dạn giao việc cho cấp, ngành đó làm. Tiếp tục trao quyền hơn nữa cho cấp chính quyền địa phương, vì trong mối quan hệ này, chính quyền địa phương có điều kiện và lợi thế hơn so với chính quyền trung ương, có điều kiện sâu sát với dân và công việc hơn. Chính quyền trung ương chỉ nên giám sát chỉ đạo, uốn nắn những sai sót của chính quyền cấp dưới, tạo ra sự thống nhất, hài hòa về mối quan hệ giữa chính quyền địa phương và chính quyền trung ương.