1. Cơ sở pháp lý
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 5 Điều 103, đó là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”; được cụ thể hóa tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Yêu cầu của nguyên tắc: các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh, và thực hiện các quyền và nghĩa khác do pháp luật quy định để làm rõ sự thật của vụ án; Tòa án phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của họ khi tranh tụng dân chủ trước phiên tòa.
Quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho thấy tên gọi của nguyên tắc có điểm chưa hợp lý. Theo tác giả, đúng ra phải đặt tên của nguyên tắc là “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử” chứ không phải là “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, vì sẽ thể hiện đầy đủ ý nghĩa, mục đích, sự trang trọng của nguyên tắc này hơn.
Mặt khác, tên gọi của Điều 26 toát lên hoạt động tranh tụng chỉ trong xét xử, nhưng nội dung lại thể hiện sự mâu thuẫn – đó là tranh tụng ngay cả trong hoạt động điều tra, truy tố. Cụ thể, nguyên tắc này quy định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điểu tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền xét xử, người bị buộc tội… đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án..”.
Nhà làm luật quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm không những để giúp cho người tiến hành tố tụng tăng cường nhận thức, đổi mới tư duy về một phiên tòa được diễn ra dân chủ, bình đẳng, tôn trọng sự thật khách quan vụ án, mà còn khắc phục sự tùy tiện, tùy nghi, lạm quyền hoặc vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử tại phiên tòa.
Nhận thức về tranh tụng và thời điểm tranh tụng như thế nào?
Tranh tụng nên được hiểu: không chỉ do hai bên buộc tội và bào chữa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác đưa ra lý lẽ, lập luận để bảo vệ quan điểm của mình, mà không thể tách khỏi vai trò của Hội đồng xét xử, đặc biệt là vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa trong việc kiểm tra và điều khiển phiên tòa. Không nên coi tranh tụng chỉ bao gồm hai bên buộc tội và bào chữa và cũng tránh sự nhầm lẫn coi tranh tụng là tranh luận. Vì tranh luận chỉ là một phần của hoạt động tranh tụng. Trên thực tế, nhận thức về thời điểm tranh tụng còn chưa thống nhất, có quan điểm cho rằng, tranh tụng xảy ra cả ở trước giai đoạn xét xử và kể cả sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Nghĩa là tranh tụng xuất hiện ngay cả ở chủ thể có thẩm quyền điều tra và chủ thể có thẩm quyền giám đốc thẩm, xét lại bản án. Nhận thức như vậy có đúng không? Tác giả cho rằng, tranh tụng chỉ bắt đầu xuất hiện khi phiên tòa hình sự được mở ở cấp sơ thẩm, với sự tham gia gồm ít nhất là bên buộc tội và người bị buộc tội hoặc có thêm bên bào chữa. Các giai đoạn tố tụng trước giai đoạn xét xử vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm hoặc sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật tuy có hoạt động buộc tội và có vai trò của người bào chữa, mà thiếu đi vai trò của chủ tọa phiên tòa và không xuất hiện cuộc tranh biện công khai giữa các bên hoặc giữa bên buộc tội với người bị buộc tội thì vẫn không phải là tranh tụng. Thời điểm tranh tụng kết thúc khi Hội đồng xét xử tuyên án hoặc vụ án bị đình chỉ, bị rút toàn bộ quyết định truy tố. Tranh tụng có thể xuất hiện ở cấp xét xử phúc thẩm với điều kiện là ngoài sự tham gia của bên buộc tội, còn có người bị buộc tội hoặc có thêm bên bào chữa và xảy ra cuộc tranh biện công khai của các chủ thể như đã nêu trên. Bởi vì phiên tòa ở cấp phúc thẩm có trường hợp người tham gia tố tụng chỉ là bị hại mà không có vai trò của người bị buộc tội là bị cáo.
2. Nội dung của nguyên tắc
– Nhà nước coi kết quả tranh tụng công khai, dân chủ, bình đẳng tại phiên tòa giữa các bên là cơ sở cho việc tuyên án, chứ không phải chỉ dựa vào tài liệu, chứng cứ có trong hổ sơ vụ án.
– Nhà nước không mong muốn Hội đổng xét xử thiên vị hoặc áp đặt trong việc buộc tội.
– Nhà nước mong muốn tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử được bảo đảm thực sự. Đây là điều tối cần thiết trong nền tư pháp trong sạch, vững mạnh.
– Nhà nước mong muốn bảo đảm sự bình đẳng trong việc chứng minh tại phiên tòa. Nhà nước tôn trọng và tạo điểu kiện thuận lợi cho bị cáo và người tham gia tố tụng khác trình bày đẩy đủ ý kiến và đối đáp tại phiên tòa; thực hiện các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định để làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc để chứng minh là mình vô tội, cũng như bảo vệ các quyền căn bản khác của mình và xã hội.
– Nhà nước coi trọng quyền bào chữa, là một quyền căn bản của con người, là phương tiện hữu hiệu để bị cáo sử dụng đối trọng lại với chức năng buộc tội. Nhà nước mong muốn nâng cao vị thế, vai trò của Luật sư tại phiên tranh tụng. Sự tham gia của người bào chữa giúp cho phiên tranh tụng được bình đẳng và ý thức tuân thủ pháp luật cao hơn, sự thật vụ án được làm sáng tỏ, có thể phát hiện những sai sót trong việc vận dụng pháp luật hình sự và quy trình tố tụng; nhanh chóng phát hiện oan, sai nếu có.