1. Cơ sở pháp lý
Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận trang trọng tại Điều 31 rằng: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Quy định này của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đó là: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản ấn kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Có thể thấy rằng, “người bị buộc tội” là một thuật ngữ pháp lý mới, được ghi nhận ngay trong Hiến pháp và Bộ luật Tổ tụng hình sự, cho thấy sự phù hợp với các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự và chuẩn mực chung được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia.

2. Nội dung của nguyên tắc
– Nguyên tắc suy đoán vô tội yêu cầu người tiến hành tố tụng không được định kiến có tội để buộc tội bị cáo cho bằng được. Xuyên suốt trong quá trình điều tra, truy tố và ngay cả khi đang xét xử vẫn không được coi một người là có tội. Chỉ được coi một người là có tội khi bản án kết tội của Tòa án đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Chỉ được xem người bị buộc tội là người bị tình nghi (còn gọi là nghi can), nếu không thì hoạt động tố tụng diễn ra có thể không khách quan, xảy ra tình trạng lạm quyền, oan, sai (ví dụ như tình trạng lạm dụng biện pháp cưỡng chế, trong đó nếu lạm dụng biện pháp tạm giam thì gây ảnh hưởng xấu đến một số quyền cơ bản của con người). Mặt khác, nếu cơ quan tiến hành tố tụng sẵn có định kiến có tội, có thể dẫn đến không có thiên hướng tìm kiếm chứng cứ vô tội, sẽ gây bất lợi cho người bị tình nghi phạm tội.
Để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội, về mặt lập pháp cũng như thực tiễn tiến hành tố tụng phải bảo đảm các quyền cơ bản của người bị buộc tội, quyền con người nói chung. Đòi hỏi khả năng áp dụng đúng đắn trình tự, thủ tục tố tụng, áp dụng chuẩn xác tội danh và khung hình phạt khi tuyên án. Khi xét hỏi, nếu bị cáo không trả lời thì chủ thể xét hỏi phải hỏi sang người tham gia tố tụng khác để làm rõ chứng cứ, vì bị cáo có quyển không trả lời câu hỏi của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong phần tranh luận, nếu bị cáo không có ý kiến tranh luận thì Kiểm sát viên phải giải thích, phần tích cho họ đầy đủ về chứng cứ dùng để buộc tội, hoặc chứng cứ làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong vụ án. Bên cạnh đó, phiên xét hỏi và tranh luận công khai nhất định phải làm rõ các vấn đề trong vụ án như xác định lỗi, các tình tiết buộc tội, gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
– Không dùng lời nhận tội của bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Nó chỉ được coi là chứng cứ khi đã đối chiếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Nghĩa là, cho dù người bị tình nghi nhận tội thì chúng ta cũng không vội vàng kết tội họ, mà ngoài lời nhận tội phải có các chứng cứ, tình tiết xác thực khác dùng để buộc tội họ.
– Nguyên tắc suy đoán vô tội còn đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo khi có sự hoài nghi về lỗi của họ. Giải thích theo hướng có lợi nên được hiểu là nếu phải lựa chọn quy phạm và tình tiết vụ án nhưng vẫn hoài nghi (không chắc chắn) thì phải lựa chọn theo hướng có lợi cho bị cáo, không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Thực tiễn cho thấy, không ít trường hợp gặp khó khăn trong việc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự, phải lựa chọn loại “chứng cứ 50/50”- đó là các chứng cứ chứng tỏ giữa có tội và không có tội, chứng cứ chứng tỏ giữa tội nặng và tội nhẹ. Ở đây, quyền suy đoán vô tội yêu cầu chúng ta phải lựa chọn không có tội hoặc tội danh nhẹ hơn hoặc khung hình phạt nhẹ hơn. Điều đáng quan tâm là nguyên tắc suy đoán vô tội ít nhiều dựa vào niềm tin nội tâm của người tiến hành tố tụng, đặc biệt là của Thẩm phán và Kiểm sát viên.
– Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Nhà nước (đại diện là cán bộ tư pháp); người bị buộc tội có quyền nhưng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình.
Nhìn nhận một cách toàn diện thì nguyên tắc suy đoán vô tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn mang tính hình thức, chưa đạt được đầy đủ ý nghĩa, hàm ý của nó. Bởi vì Bộ luật này không quy định chính thức quyền được im lặng (quyền không khai báo) của người bị buộc tội. Ở nước ta, quyền được im lặng chỉ xảy ra tại phiên tòa, nhưng còn khá mờ nhạt. Quyền này được pháp luật tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới ghi nhận một cách rõ ràng hơn, theo đó bị cáo tại phiên tòa không bắt buộc phải khai báo, và không buộc phải trả lời bất cứ câu hỏi thẩm vấn nào của Công tố viên hoặc của Thẩm phán. Bị cáo chỉ trả lời thẩm vấn tại phiên tòa khi thấy việc đó là có lợi cho mình. Trách nhiệm đưa ra chứng cứ buộc tội thuộc về Công tố viên đại diện cho Nhà nước. Nếu như Công tố viên không có đủ bằng chứng buộc tội hoặc chứng cứ không đủ thuyết phục, thì bị cáo phải được tuyên vô tội. Qua đó chúng ta thấy bị cáo không có nghĩa vụ buộc phải chứng minh là mình vô tội. Điều này một mặt chứng tỏ bị cáo có quyền lựa chọn phương pháp tranh tụng, họ có thể khai báo nếu có lợi cho mình hoặc im lặng để mặc câu trả lời từ phía Nhà nước. Quyền được im lặng được xác lập có tính thuyết phục sẽ bảo đảm tính dân chủ, bình đẳng của một phiên tranh tụng. Mặt khác, ưu điểm của nó là tránh được sự áp đặt ý chí của Nhà nước trong việc thẩm vấn theo định kiến tại phiên tòa, cũng như sẽ nâng cao vị thế và năng lực của Luật sư. Tuy nhiên, quyền được im lặng có hạn chế là thiếu đi sự hợp tác từ phía bị cáo, do bị cáo tham gia phiên tòa một cách thụ động. Vì vậy mà khi dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có các quan điểm lập pháp khác nhau về việc có nên quy định chính thức quyền được im lặng cho bị cáo hay không. Về vấn đề này, khoản 3 Điều 309 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án; và Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Các quy phạm này gián tiếp quy định quyền được im lặng của người bị buộc tội tại phiên tòa mà chưa phải là một khái niệm chính thức, cùng với các quy phạm có tính độc lập, chính thức điều chỉnh về quyền được im lặng của người bị buộc tội.