Luật tố tụng hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm là vấn đề quan trọng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này một cách kiên quyết, kịp thời, có hiệu quả, Quốc hội đã thông qua nhiều vãn bản pháp luật quan trọng, trong đó Bộ luật hình sự (BLHS) quy định hành vi nàọ là nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm, về vấn đề này V.I. Lênin đã chỉ rõ:
“Tác dụng ngăn ngừa của hình phạt… hoàn toàn không phải ở chỗ hình phạt đó phải nặng mà ở chỗ đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt.
Điều quan trọng không phải ở chỗ đã phạm tội thì phải trừng phạt nặng mà là ở chỗ không tội phạm nào không bị phát hiện “.
Để bảo đảm phát hiện chính xác và xử lí công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời góp phần bảo vệ công lí, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, pháp luật cần phải quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.
Khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nếu xác định có dấu hiệu của tội phạm hoặc khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì quyết định khởi tố vụ án hình sự theo thẩm quyền; tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chóng minh tội phạm và người phạm tội, lập hồ sơ vụ án hình sự, ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố chuyển sang viện kiểm sát, nếu có đủ chứng cứ để xác định có hành vi phạm tội xảy ra và người đã thực hiện hành vi phạm tội đó. Nếu xét thấy việc khởi tố vụ án không có căn cứ hoặc đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm… thì cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Nếu bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của hội đồng giám định pháp y; chưa xác định được bị can hay không biết bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra. Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, tuỳ từng trường hợp viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định như trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án hay quyết định truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc bằng quyết định truy tố (nếu vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn). Khi nhận được hồ sơ do viện kiểm sát chuyển đến, toà án nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cần thiết để giải quyết vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bản án của tòa án quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt và biện pháp tư pháp…
Quá trình từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi xét xử là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó xét xử là hoạt động trung tâm và mang tính quyết định. Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khỉ được chứng minh theo trình tự, thủ tục Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khỉ không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tổ tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Như vậy, xét xử là một hình thức hoạt động nhà nước đặc biệt do toà án thực hiện, nhằm xem xét và giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật. Đe việc xét xử được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án hình sự phải được khởi tố, điều tra, truy tố trước khi xét xử. Sau khi xét xử, toà án ra bản án tuyên bố bị cáo có tội hoặc không có tội và các quyết định khác. Bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và được cảc cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cá nhân và tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án và quyết định của toà án. Như vậy, tố tụng hình sự không chỉ bao gồm hoạt động xét xử vụ án mà còn bao gồm cả những hoạt động trước khi xét xử (như khởi tố, điều tra, truy tố) và những hoạt động sau khi xét xử (như thi hành án). Mặt khác, để phát hiện, xử lí tội phạm và người phạm tội, luật tố tụng hình sự còn quy định sự tham gia tố tụng của những người có liên quan đến vụ án, của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác.
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự). Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án); người tiến hành tố tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên, cán bộ điều tra; viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, kiểm tra viên; chánh ấn, phó chánh án toà án, thẩm phán, hội thẩm và thư kí toà án, kiểm tra viên); cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (các cơ quan của bộ đội biên phòng, các cơ quan của hải quan, các cơ quan của kiểm lâm, các cơ quan của lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan của kiểm ngư, các cơ quan của công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan khác trong quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; người tham gia tố tụng (người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người chứng kiến, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của BLTTHS), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự.
Như đã phân tích ở trên, quá trình giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn thực hiện nhiệm vụ nhất định của tố tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước trong trình tự tố tụng có nhiệm vụ riêng, mang đặc thù về phạm vi chủ thể, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng. Theo chúng tôi, Luật tố tụng hình sự Việt Nam chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau (Có nhiều quan điểm khác nhau về sự phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự. Ví dụ: Có quan điểm cho rằng khởi tố và điều tra là một giai đoạn. Trong giáo trình này, căn cứ vào tinh thần của các quy định trong BLTTHS, tố tụng hình sự được chia làm 7 giai đoạn.):
– Khởi tố vụ án hình sự: Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khác theo quy định của pháp luật.
– Điều tra vụ án hình sự: Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật, tiến hành thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ làm rõ đối tượng chứng minh để ra kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra; quyết định tạm đình chỉ điều tra và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.
– Truy tố: Trong giai đoạn truy tố, viện kiểm sát tiến hành các hoạt động cần thiết để truy tố bị can trước toà án bằng bản cáo trạng hoặc ra những quyết định tố tụng khác để giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
– Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, toà án cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) tiến hành giải quyết và xử lí vụ án bằng việc ra bản án hoặc các quyết định tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
– Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Trong giai đoạn này, toà án cấp trên trực tiếp (cấp xét xử thứ hai) của tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật (cũng có quan điểm cho rằng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là một giai đoạn).
– Thi hành án hình sự: Trong giai đoạn này, cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện bản án và quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật (Hiện nay, có quan điểm cho rằng thi hành án không phải là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng trong BLTTHS năm 2015 vẫn quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn xem thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hình sự).
– Giai đoạn đặc biệt: Đây là giai đoạn xét lại bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Trong giai đoạn này, toà án xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án (giám đốc thẩm – Xem: Điều 370 BLTTHS năm 2015) hoặc có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà toà án không biết được khi ra bản án, quyết định đó (tái thẩm – Xem: Điều 397 BLTTHS năm 2015). Ngoài thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, giai đoạn này còn có thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Xem: Chương 27 BLTTHS năm 2015).
Sự phân chia các giai đoạn này gắn liền với trách nhiệm của từng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mỗi giai đoạn tuy độc lập nhưng vẫn nằm trong mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo thành hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Ket thúc một giai đoạn phải có kết luận dưới hình thức văn bản tố tụng để giải quyết vụ án.
Xem thêm: Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự mới nhất