Trong xu thế hội nhập quốc tế, các giao dịch dân sự quốc tế ngày càng tăng mạnh, đồng thời phát sinh nhiều vụ việc, tranh chấp dân sự giữa công dân, pháp nhân các nước. Nhu cầu giải quyết các vụ việc dân sự quốc tế được đặt ra với hệ thống các cơ quan tư pháp các quốc gia, một mặt nhằm tạo thuận lợi cho các giao dịch dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình, mặt khác phải đảm bảo bảo vệ tốt quyền lợi cho các chủ thể trong các tranh chấp quốc tế. Nội dung chương này sẽ giới thiệu về trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự quốc tế tại hệ thống các cơ quan tư pháp quốc gia và tại Việt Nam, bao gồm các vấn đề như giải quyết xung đột về thẩm quyền xét xử; địa vị tố tụng của chủ thể nước ngoài tại Việt Nam; ủy thác tư pháp; công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài.
1. Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế
Dưới góc độ khoa học pháp lí, khái niệm tố tụng dân sự được hiểu là trình tự thủ tục giải quyết một vụ việc dân sự trong nước, tại hệ thống cơ quan tư pháp của một quốc gia. Khái niệm tố tụng dân sự quốc tế là trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại hệ thống cơ quan tư pháp của quốc gia theo pháp luật tố tụng của chính nước đó xây dựng hoặc công nhận.
Để hiểu rõ hơn khái niệm này, trước hết cần phải nắm được vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là gì? Vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm 2 loại:
– Yêu cầu về dân sự có yếu tố nước ngoài là các yêu cầu của chủ thể về các quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự có yếu tố nước ngoài như yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người nước ngoài mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam; chủ thể là cá nhân nước ngoài yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật tại Việt Nam; hoặc yêu cầu công nhận thuận tình li hôn; thoả thuận nuôi con, chia tài sản khi li hôn... có yếu tố nước ngoài.
– Tranh chấp về dân sự có yếu tố nước ngoài là loại vụ việc có sự xung đột về lợi ích giữa các bên trong một quan hệ pháp lí mà một hoặc các bên đưa ra các yêu cầu, đòi hỏi một lợi ích nhất định (quyền hoặc nghĩa vụ). Ví dụ như tranh chấp về hợp đồng, phân chia di sản thừa kế, tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản, quyền nuôi con... có yếu tố nước ngoài. Việc giải quyết các tranh chấp dân sự thường theo một quy trình tố tụng phức tạp hơn, được giải quyết tại toà án.
Khái niệm vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài hiện được quy định tại khoản 2 Điều 464 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, theo đó, vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là vụ việc dân sự thuộc một trong các trường hợp: i) Có ít nhất một trong các bên tham gia là cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài; ii) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng việc xác lập, thay đổi, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ đó xảy ra tại nước ngoài; iii) Các bên tham gia đều là công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam nhưng đối tượng của quan hệ dân sự đó ở nước ngoài.
Như vậy, việc giải quyết các loại vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ áp dụng theo trình tự thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài hay còn gọi là tố tụng dân sự quốc tế.
Tố tụng dân sự quốc tế là một quy trình thủ tục đặc thù, nội dung của tố tụng dân sự quốc tế bao gồm các vấn đề cơ bản sau: xác định thẩm quyền xét xử quốc tế; ủy thác tư pháp, tương trợ tư pháp; xác định địa vị tố tụng của các chủ thể nước ngoài; trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài tại toà án và công nhận, cho thi hành bản án, quyết định dân sự của toà án nước ngoài, phán quyết của trọng tài nước ngoài.

2. Đặc trưng của tố tụng dân sự quốc tế
Khác với trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự trong nước, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, thủ tục giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là một trình tự thủ tục đặc biệt. Tính đặc thù của quy trình này xuất phát từ “tính chất quốc tế” của loại vụ việc. Đây là các vụ việc có liên quan đến hệ thống pháp luật và hệ thống tài phán của các quốc gia khác nhau. Do đó, vấn đề pháp lí đầu tiên đối với các cơ quan tư pháp của một quốc gia khi giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là cần giải quyết vấn đề xung đột về thẩm quyền (conflict of jurisdiction) và xung đột pháp luật (conflict of laws) trước khi giải quyết nội dung vụ việc. Nhìn chung, thủ tục giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ thực hiện theo một quy trình riêng, phức tạp hơn, qua nhiều giai đoạn hơn so với thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự trong nước.
Thứ hai, mặc dù có những đặc thù riêng nhưng tố tụng dân sự quốc tế vẫn là một quy trình thủ tục được thực hiện tại hệ thống cơ quan tư pháp của mỗi quốc gia, theo các nguyên tắc và các quy định của pháp luật tố tụng của quốc gia đó. Các quy định về tố tụng thể hiện chủ quyền tài phán của mỗi quốc gia về tư pháp, là luật hình thức và thuộc lĩnh vực luật công.
Tuy nhiên, khác với thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự trong nước, các quy định của tố tụng dân sự quốc tế được quy định hoặc trong các điều ước quốc tế hoặc trong các văn bản pháp luật trong nước. Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực tố tụng chủ yếu nhằm mục đích tăng cường, tạo thuận lợi cho các hoạt động hợp tác tư pháp, giải quyết xung đột thẩm quyền, công nhận và thi hành bản án giữa các nước thành viên. Các quy định về tố tụng dân sự quốc tế trong các văn bản pháp luật trong nước được quy định thành một phần độc lập tách riêng với các quy định về tố tụng dân sự trong nước khác (xem phần nguồn của tố tụng dân sự quốc tế).
Mặc dù thuật ngữ “tố tụng dân sự quốc tế” thường được sử dụng trong việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài nhưng không nên nhầm lẫn đây là một trình tự thủ tục dân sự của cơ quan tài phán quốc tế”, vì thực chất đây là quy trình thủ tục tố tụng quốc gia, được giải quyết tại hệ thống toà án mỗi quốc gia. Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực tố tụng không phải là một quy trình thủ tục tố tụng quốc tế độc lập. Nói cách khác, thuật ngữ “tố tụng dân sự quốc tế” là quy trình thể hiện ở tính chất của vụ việc (tính chất quốc tế), chứ không phải dựa vào tính chất của quy trình, thủ tục đó.
3. Các nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự quốc tế
Tố tụng dân sự quốc tế được hình thành và phát triển trên nền tảng các nguyên tắc pháp lí cơ bản của tư pháp quốc tế. Đó là những tư tưởng chính trị, pháp lí mang tính chỉ đạo quá trình xây dựng và thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm đảm bảo cho việc thực thi quyền và lợi ích các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tố tụng dân sự quốc tế được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau:
3.1. Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
Hoạt động tố tụng là hành vi pháp lí được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp công của một quốc gia nhưng lại liên quan chủ yếu đến lợi ích của các chủ thể tư của các nước hữu quan nên trong tố tụng dân sự quốc tế các hoạt động này cần được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các bên trong quan hệ tố tụng. Đây là nguyên tắc nền tảng, xuyên suốt quá trình tố tụng dân sự quốc tế, luôn được bảo đảm thực hiện thể hiện của việc tôn trọng chủ quyền quốc gia về quyền tài phán.
3.2. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử (Non Discrimination) giữa bên trong quan hệ tố tụng dân sự quốc tế
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia, trong quan hệ tố tụng dân sự quốc tế, nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các bên có ý nghĩa nhằm xác lập sự bình đắng trong địa vị pháp lí, không phân biệt đối xử của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài trong mối quan hệ với công dân, pháp nhân nước sở tại cũng như với công dân, pháp nhân nước ngoài khác trên lãnh thổ nước sở tại trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trước hệ thống các cơ quan tư pháp. Pháp luật các nước đã thừa nhận những chế độ pháp lí nhất định dành cho người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài ở nước sở tại, là chế độ đãi ngộ quốc gia (còn gọi là đãi ngộ như công dân) và chế độ đãi ngộ tối huệ quốc trong lĩnh vực dân sự quốc tế.
3.3. Nguyên tắc có đi có lại
Trong tố tụng dân sự quốc tế, việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại cùng với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử được coi là những đảm bảo pháp lí quan trọng cho việc bảo vệ công lí quốc tế, nhất là trong các hoạt động hợp tác, tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tố tụng của các nước khác nhau, ví dụ như trong hoạt
động ủy thác tư pháp, công nhận và cho thi hành tại Việt Nam các phán quyết đã có hiệu lực của toà án hay trọng tài nước ngoài.
1.3.4. Nguyên tắc tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tố tụng dân sự quốc tế
Cũng xuất phát từ các học thuyết về chủ quyền quốc gia, pháp luật các nước đều có các quy định về quyền miễn trừ đối với quốc gia trong quan hệ tố tụng dân sự quốc tế (quyền miễn trừ tư pháp). Đây là nguyên tắc có nguồn gốc từ tập quán quốc tế, theo đó thì các quốc gia (chủ thể ngang bằng về địa vị pháp lý) không có quyền tài phán lẫn nhau, các cơ quan tư pháp của một nước không có quyền xét xử, hay áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho thi hành án đối với quốc gia và tài sản của quốc gia khác trong tố tụng dân sự quốc tế.
1.3.5. Nguyên tắc Luật toà án (Lex fori)
Trong tố tụng dân sự quốc tế, nguyên tắc luật toà án (Lex fori) là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất. Đây là nguyên tắc mang tính tiền đề, tạo cơ sở cho toàn bộ quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Nội dung nguyên tắc (Lex fori) là toà án của một quốc gia khi thụ lí một vụ việc sẽ áp dụng luật của chính nước có toà án đó để giải quyết vụ việc.
Luật toà án được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm luật hình thức và luật nội dung của nước có toà án và các quy định tư pháp quốc tế của nước nơi toà có thẩm quyền. Theo nghĩa hẹp, luật toà án trong tố tụng dân sự quốc tế được hiểu là toà án chỉ áp dụng luật tố tụng của chính nước có toà án (không áp dụng pháp luật tố tụng nước ngoài). Về luật nội dung, toà án cũng sẽ áp dụng các quy định của tư pháp quốc tế nước có toà án để xác định.