Các nghiên cứu gần đây đã xác định, bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức nhận tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa những hậu quả xấu từ sự đổ vỡ của những tổ chức này và góp phần quan trọng vào bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cũng như góp phần quan trọng vào việc hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động của các tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Ở Việt Nam hoạt động bảo hiểm tiền gửi đã được hình thành và đi vào hoạt động gần chục năm, chúng ta đã ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động này và thực tế cho thấy bảo hiểm tiền gửi Việt Nam phần nào đã thể hiện được vai trò của mình trong việc tạo niềm tin cho người gửi tiền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền cũng như tạo ra sự bình ổn cho hoạt động ngân hàng.
Các quan niệm về bảo hiểm tiền gửi của các nhà khoa học Việt Nam hiện nay vẫn còn khá khiêm tốn, hoặc dựa vào quan niệm của các nhà khoa học khác để phân tích bản chất của bảo hiểm tiền gửi. Chẳng hạn, tác giả Đào Văn Tuấn đã dẫn theo tài liệu “Xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” của Diễn đàn ổn định tài chính tháng 9/2001, “Bảo hiểm tiền gửi được hiểu là một sự bảo đảm rằng số dư gốc và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi nhất định sẽ được thanh toán tới một giới hạn nhất định”.
Tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh trong Luận án tiến sĩ của mình đã đưa ra khái niệm bảo hiểm tiền gửi như sau: “Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết công khai này thể hiện dưới hình thức hợp đồng bảo hiểm giữa ha đối tác, tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tổ chức huy động tiền gửi (còn gọi là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi) và người gửi tiền”.
Quan niệm này đã đề cập khá toàn diện khái niệm bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở tiếp cận từ các chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm tiền gửi và điều kiện chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm, theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn bị buộc giải thể hoặc phá sản.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là đối tác nhận đóng góp tài chính từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm đến người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng có hoạt động huy động tiền gửi. Theo thông lệ quốc tế, hiện nay trên thế giới có hai xu hướng tham gia bảo hiểm tiền gửi, đó là các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có thể tham gia bảo hiểm tiền gửi một cách bắt buộc hoặc tham gia tự nguyện. Điều này, tùy thuộc vào chính sách tài chính ngân hàng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, qua nghiên cứu ở các nước cho thấy, xu hướng phổ biến hiện nay là tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc. Khi tham gia bảo hiểm tiền gửi các tổ chức này có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi và được quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này bị mất khả năng thanh toán và bị cơ quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm là khách hàng có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Người gửi tiền không phải đóng góp tài chính cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi nhưng có quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền gửi kể cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó trong hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể là toàn bộ hoặc một phần tiền gửi do chính sách của mỗi quốc gia.

Nội dung quy định bảo hiểm tiền gửi được quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền gửi (Nghị định 89/1999/NĐ-CP), Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ngày 9/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ ban hành và Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/6/2000 quy định về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, song chưa có quy định về khái niệm bảo hiểm tiền gửi Đây là một trong những hạn chế lớn của pháp luật bảo hiểm tiền gửi trước đây.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 thì bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản. Nội dung khái niệm bảo hiểm tiền gửi theo Luật Bảo hiểm tiền gửi đã:
Thứ nhất, quy định rõ mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định bảo hiểm tiền gửi là loại bảo hiểm bắt buộc. Theo đó, tổ chức tín dụng phải tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật và công bố công khai việc tham gia tổ chức bảo toàn, bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở chính và chi nhánh.
Thứ ba, pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định cơ chế bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là cơ chế bảo hiểm tiền gửi có hạn mức ngay từ khi thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Ban đầu, hạn mức trả tiền bảo hiểm được giới hạn ở mức 30 triệu VNĐ, sau đó được tăng lên 50 triệu VND. Việc áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi có hạn mức đã giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ tư, các quy định về chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền rõ ràng. Pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định việc trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền phải được thực hiện trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Toà án mở thủ tục phá sản hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn Bên cạnh đó, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được quyền tiếp cận thông tin về người gửi tiền trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hoặc của tòa án do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cung cấp, bao gồm danh sách và số tiền gửi của người
gửi tiền được xác minh và kiểm tra sổ sách trong thời hạn 5 ngày và có thông báo về việc trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm tra. Người gửi tiền được tiếp nhận thông tin về việc trả tiền bảo hiểm: thời gian, địa điểm và phương thức tiến hành trả tiền bảo hiểm.
Thứ năm, để bảo đảm việc thu hồi tiền bảo hiểm tiền gửi đã chi trả, pháp luật bảo hiểm tiền gửi Việt Nam về thu hồi tiền bảo hiểm sau chi trả của tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi với số tiền bảo hiểm đã chi trả; được phân chia giá trị tài sản theo thứ tự thanh toán như đối với người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản; được quyền tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.