1. Hối phiếu là gì?
Tại khoản 2 Điều 4 của Luật các công cụ chuyển nhượng 2005, hối phiếu được định nghĩa như sau: “Hối phiếu (Hối phiếu đòi nợ) là giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng“.
Các bên tham gia:
Các bên tham gia có quyền lợi và nghĩa vụ về hối phiếu bao gồm:
(i) Người ký phát (drawer): Là người lập và ký phát hành hối phiếu.
(ii) Người bị ký phút (drawee): Là người có trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu.
(iii) Người chấp nhận (acceptor): Là người bị ký phát sau khi ký chấp nhận hối phiếu. Người chấp nhận có trách nhiệm thanh toán hối phiếu khi đến hạn. Như vậy, người chấp nhận luôn là người bị ký phát, ngược lại thì không. Ví dụ, đối với hối phiếu “at sight”, người bị phát không ký chấp nhận hối phiếu nên không trở thành người chấp nhận.
(iv) Người thụ hưởng (beneficiary): Là người sở hữu hợp pháp hối phiếu, do đó có quyền được nhận thanh toán số tiền ghi trên hối phiếu. Người thụ hưởng còn có tên gọi là người cầm “holder hay bearer“. Tuy trường hợp, người thụ hưởng có thể là:
– Người thụ hưởng đích danh, do người ký phát hối phiếu chỉ định. Người ký phát có thể chỉ định người thụ hưởng đính danh là chính mình.
– Người nhận chuyển nhượng hối phiếu.
– Người cầm giữ hối phiếu vô danh.
(v) Người chuyển nhượng (endorser or assignor): Là người chuyển quyền hưởng lợi hối phiếu cho người khác bằng cách trao tay hay bằng thủ tục ký hậu (nên còn gọi là người ký hậu).
(vi) Người bảo lãnh (avaliseur): Là bất cứ người nào ký tên vào hối phiếu, ngoại trừ người ký phát và người bị ký phát. Nếu hối phiếu đến hạn mà không được người chấp nhận thanh toán, thì người bảo lãnh có trách nhiệm thanh toán hối phiếu cho người hưởng lợi. Người bảo lãnh có quyền truy đòi bất kỳ người nào đã ký tên vào hối phiếu kể cả người ký phát.
2. Những nội dung bắt buộc của hối phiếu
Để nắm được những nội dung của hối phiếu, trước hết ta hãy nghiên cứu mẫu hối phiếu chuẩn như sau:
Vì được lưu thông, nên hối phiếu phải có một hình thức nhất định để có thể phân biệt được hối phiếu với các phương tiện thanh toán khác. Về hình thức, hối phiếu phải được thể hiện dưới dạng văn bản; hình mẫu hối phiếu do các pháp nhân và thể nhân tự quyết định; ngôn ngữ hối phiếu bằng ngôn ngữ viết tay, in sẵn hoặc đánh máy và phải bằng một thứ tiếng nhất định và thống nhất. Hối phiếu có thể được lập thành một hay nhiều bản (thường là hai bản), mỗi bản đều đánh số thứ tự, các bản đều có giá trị như nhau. Khi thanh toán, ngân hàng thường gửi hối phiếu cho người trả tiền làm hai lần kế tiếp nhau đề phòng thất lạc, bản nào đến trước sẽ được thanh toán trước, bản nào đến sau sẽ trở thành vô giá trị. Nếu là bản thứ nhất thì ghi: “second of the same tenor and dated being unpaid“; nếu là bản thứ hai thì ghi: “first of the same tenor and dated being unpaid“.
Hình mẫu hối phiếu không quyết định giá trị pháp lý của hối phiếu, nhưng vì là chứng chỉ có giá và được lưu thông nên nội dung của Hối phiếu phải được quy định hết sức chặt chẽ. Một chứng từ được xem là hối phiếu phải hội đủ tám yếu tố sau:
(1) Phải có chữ “Hối phiếu” ghi trên mặt trước chứng từ:
Cụm từ hối phiếu bắt buộc phải ghi trên chứng từ và phải ghi bằng cùng thứ tiếng lập hối phiếu. Nếu thiếu, chứng từ đó không được coi là hối phiếu. Việc quy định trên tờ chứng từ phải có tiêu đề “Hối phiếu” là để phân biệt về mặt hình thức một chứng từ có là hối phiếu hay không.
Về thuật ngữ, bằng tiếng Anh có thể là: “Bill of Exchange” hoặc “Draft”; bằng tiếng Việt có thể là: “Hối phiếu” hoặc “Hối phiếu đòi nợ”. Sau đây thuật ngữ “Hối phiếu” được ưu tiên sử dụng.
(2) Lệnh thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán vô điều kiện một số tiền nhất định:
a/ Vô điều kiện” nghĩa là:
– Đối với người ký phát, khi đưa ra lệnh thì không được kèm theo bất kỳ điều kiện hay lý do nào, mà chỉ đơn thuần ra lệnh thanh toán/chấp nhận là đủ. Khi ra lệnh, nếu người ký phát lại kèm theo điều kiện sẽ làm cho hối phiếu trở nên vô hiệu, ví dụ, nếu ghi: “Thanh toán số tiền hối phiếu nếu hàng hóa đúng yêu cầu“; hoặc “Thanh toán số tiền tương đương với số lượng và giá bán ghi trên hợp đồng“.
– Đối với người bị ký phát, khi nhận được hối phiếu, người bị ký phát chỉ có hai lựa chọn: hoặc là thanh toán/chấp nhận mà không được đưa ra hay viện ra bất cứ một lý do hay điều kiện nào; hoặc là từ chối thanh toán/chấp nhận. Mọi thanh toán/chấp nhận kèm theo điều kiện là vô giá trị.
b/ Số tiền ghi trên hối phiếu: Tuỳ theo luật của từng nước mà cách ghi số tiền có thể khác nhau:
– Công ước Geneve 1930: Khi số tiền thanh toán của hối phiếu được ghi cả bằng chữ và cả bằng số nhưng lại không khớp nhau, thì khoản tiền ghi bằng chữ sẽ là khoản tiền thanh toán. Khi khoản tiền thanh toán của hối phiếu được ghi bằng chữ nhiều lần hoặc ghi bằng số nhiều lần và có sự không khớp giữa các lần ghi thì số tiền nhỏ hơn sẽ là số tiền thanh toán.
– Luật các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam: Khi số tiền trên hối phiếu được ghi bằng số khác với số tiền ghi bằng chữ thì số tiền ghi bằng chữ có giá trị thanh toán. Trong trường hợp số tiền trên hối phiếu được ghi hai lần trở lên bằng chữ hoặc bằng số và có sự khác nhau thì số tiền có giá trị nhỏ nhất được ghi bằng chữ có giá trị thanh toán.
– Luật các công cụ chuyển nhượng của Trung Quốc và Tập quán Ngân hàng Tiêu chuẩn Quốc tế (ISBP): Số tiền ghi bằng chữ và ghi bằng số phải chính xác như nhau.
(3) Tên và địa chỉ của người bị ký phát
Việc quy định tên và địa chỉ của người bị ký phát là nhằm bảo đảm cho người thụ hưởng có thể xác định được ai (ở đâu) là người chịu trách nhiệm thanh toán/chấp nhận hối phiếu.
Trong ngoại thương, người bị ký phát phụ thuộc vào phương thức thanh toán. Cụ thể là:
– Trong phương thức ứng trước, ghi sổ, chuyển tiền và nhờ thu: Đó là người nhập khẩu hàng hoá.
– Trong phương thức tín dụng chứng từ: Đó là ngân hàng mở L/C.
Trách nhiệm của người bị ký phát:
– Nếu hối phiếu là trả tiền ngay, thì phải trả ngay theo nội dung quy định trong hối phiếu.
– Nếu hối phiếu là kỳ hạn, thì phải ký chấp nhận khi nhìn thấy hối phiếu và thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
Quyền lợi của người bị ký phát:
– Có quyền từ chối trả tiền khi hối phiếu ký sai luật.
– Có quyền từ chối trả tiền khi chưa ký chấp nhận hối phiếu kỳ hạn.
(4) Thời hạn thanh toán hối phiếu
al Thanh toán ngay: Nghĩa là thanh toán khi nhìn thấy, khi yêu cầu, khi xuất trình hối phiếu (payable at sight, payable on demand, payable on presentment). Đối với hối phiếu thanh toán ngay, thì thời hạn xuất trình để thanh toán theo ULB 1930 là trong vòng 1 năm, theo Luật các công cụ chuyển nhượng của Việt Nam là 90 ngày.
Cách ghi thời hạn trả tiền ngay cụ thể như sau:
Tiếng Việt: “Ngay khi nhìn thấy bản thứ nhất của hối phiếu này (Bản thứ hai cùng thời hạn và ngày tháng không thanh toán) thanh toán cho…….. số tiền.
Tiếng Anh: “At Sight of this First Bill of Exhange (Second.of the same tenor and dated being unpaid) pay to the………the sum of……….“.
b/ Thanh toán có kỳ hạn: Bao gồm bốn trường hợp sau:
1/ Thanh toán tại một ngày nhất định sau khi nhìn thấy.
Tiếng Việt: “X ngày sau khi nhìn thấy bản thứ…..(nhất hoặc hai) của hối phiếu này, thanh toán cho ……số tiền …“.
Tiếng Anh: “At X days after sight of this……(first or second) bill of exchange, pay to………..the sum of…. ”
2/ Thanh toán tại một ngày nhất định sau ngày ký phát.
Tiếng Việt: “X ngày sau ngày ký phát bản thứ …….(nhất hoặc hai) của hối phiếu này, thanh toán cho……số tiền
Tiếng Anh: “At X days after signed of this……(first or second) bill of exchange, pay to………..the sum of…. ……“.
3/ Thanh toán tại một ngày nhất định sau ngày vận đơn.
Tiếng Việt: “X ngày sau ngày vận đơn của bản thứ…….(nhất hoặc hai) của hối phiếu này, thanh toán cho……số tiền
Tiếng Anh: “At X days after bill of lading date of this……(first or second) bill of exchange, pay to………..the sum of………
4/ Thanh toán tại một ngày cụ thể trong tương lai.
Tiếng Việt: “Tại….. (ngày tháng) của bản thứ….. (nhất hoặc hai) của hối phiếu này, thanh toán cho…….số tiền ……“.
Tiếng Anh: “On…..(date) of this……(first or second) bill of exchange, pay to……… the sum of………..”
Điểm lưu ý là, đối với những hối phiếu không quy định thời hạn thanh toán được xem là hối phiếu thanh toán ngay. Còn các hối phiếu quy định nhiều thời hạn thanh toán hoặc quy định thời hạn thanh toán khác với 4 cách nêu trên đều trở nên vô giá trị. Việc quy định rõ ràng thời hạn thanh toán của hối phiếu là căn cứ quan trọng để xác định thời hạn thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ hối phiếu.
(5) Địa điểm thanh toán:
Nếu không có quy định khác, thì địa chỉ của người bị ký phát được xem là địa điểm thanh toán hối phiếu. Tuy nhiên, nếu trên hối phiếu quy định một địa điểm thanh toán khác, thì địa điểm này được xem là địa điểm thanh toán hối phiếu. Ngày nay, người ta thường chọn ngân hàng nơi người bị ký phát mở tài khoản giao dịch làm địa điểm thanh toán thì hối phiếu mới có độ tin cậy cao, do đó, trong trường hợp này, người ta ghi cả số tài khoản của người bị ký phát, địa chỉ ngân hàng thanh toán trên hối phiếu. Việc quy định địa điểm thanh toán cụ thể trên hối phiếu là yếu tố bắt buộc để người thụ hưởng xuất trình hối phiếu yêu cầu thanh toán hối phiếu khi đến hạn.
(6) Tên của người thụ hưởng:
Người thụ hưởng có thể là: Bản thân người ký phát, hoặc một người khác được người ký phát chỉ định, hoặc bất cứ ai được người hưởng lợi chuyển nhượng hối phiếu bằng thủ tục ký hậu hay trao tay. Như vậy, nếu người ký phát không chỉ định người thụ hưởng khác, thì người ký phát chính là người thụ hưởng duy nhất của hối phiếu.
Tuy nhiên, trong thực tế, người ký phát có thể chỉ định một người thụ hưởng khác. Các trường hợp có thể là:
– Chỉ định một người thụ hưởng đích danh khác: “Thanh toán cho (Ông, bà)… số tiền…”. Với cách quy định thế này, nếu người thụ hưởng không muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác, thì anh ta sẽ là người thụ hưởng duy nhất. Nếu người ký phát muốn chỉ một người nào đó là người thụ hưởng duy nhất thì phải ghi trên hối phiếu câu: “Chỉ thanh toán cho (ông, bà)…số tiền…” (pay to Mr…only the sum of…); hoặc câu “không được chuyển nhượng”, “cấm chuyển nhượng” (not negotiable); hoặc câu “không trả theo lệnh” (not pay to order). Với cách quy định này, nhằm tạo tư duy thường trực cho những người liên quan đến hối phiếu là: Đặc điểm cơ bản của hối phiếu là chuyển nhượng được, do đó, muốn hối phiếu không được chuyển nhượng thì phải nói rõ điều này.
– Quy định thanh toán theo lệnh: Ví dụ “Thanh toán theo lệnh của Ông (bà)… số tiền…”. Với cách quy định theo lệnh, nếu không muốn chuyển nhượng hối phiếu cho người khác, thì người thụ hưởng chỉ việc ghi câu “thanh toán cho Ông (bà) (tên của mình)… số tiền…”. Còn nếu muốn chuyển nhượng cho người khác, thì theo nghiệp vụ ký hậu hối phiếu.
– Quy định việc thanh toán cho người cầm “to the bearer”: Nếu hối phiếu được ký phát cho người cầm, thì bất cứ người nào cầm phiếu đều trở thành người thụ hưởng. Người cầm phiếu có quyền chuyển nhượng hối phiếu cho người khác thông qua hình thức trao tay. Một hối phiếu không ghi tên người thụ hưởng đích danh và cũng không ghi cho người cầm (để trống), thì theo tập quán được hiểu là thanh toán cho người cầm.
Trong ngoại thương, các hối phiếu thường được ký phát cho người hưởng là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu, bởi vì theo luật quản lý ngoại hối thì các công ty thường không có tài khoản bằng ngoại tệ mở tại các ngân hàng ở nước ngoài, do đó, phải thông qua ngân hàng phục vụ mình để thu hộ tiền hối phiếu ghi bằng ngoại tệ.
(7) Ngày tháng và nơi phát hành hối phiếu:
Nếu trên hối phiếu không ghi rõ địa điểm phát hành, thì địa chỉ của người phát hành được xem là nơi phát hành hối phiếu. Còn nếu trên hối phiếu lại thiếu cả địa chỉ của người phát hành thì hối phiếu trở nên vô giá trị. Địa điểm phát hành hối phiếu có ý nghĩa rất quan trọng, vì luật pháp của nơi phát hành sẽ điều chỉnh hối phiếu này. Điều chú ý là, nếu hối phiếu không ghi ngày tháng phát hành sẽ trở nên vô giá trị. Điều này là logic, bởi vì, hối phiếu không có ngày tháng phát hành sẽ không xác định được chính xác ngày hiệu lực thanh toán.
(8) Tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát hối phiếu:
Như đã nói ở trên, hối phiếu được bảo đảm thanh toán hai lần, đó là người bị ký phát và người ký phát. Trong trường hợp hối phiếu được chuyển nhượng nhưng người bị ký phát từ chối trả tiền/chấp nhận, thì người ký phát là người cuối cùng chịu trách nhiệm thanh toán hối phiếu cho người thụ hưởng. Do đó, tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát là yếu tố bắt buộc phải thể hiện trên hối phiếu. Luật các nước đều cấm hành vi ký phát hối phiếu không đúng thẩm quyền hoặc giả mạo chữ ký.
Trên đây là 8 yếu tố bắt buộc cấu thành một hối phiếu, thiếu một trong các yếu tố này hối phiếu trở nên vô giá trị. Việc tuân thủ chặt chẽ các yếu tố bắt buộc của hối phiếu có ý nghĩa làm cho hối phiếu trở nên được chứng chỉ hóa và tăng được khả năng lưu thông (chuyển nhượng), đồng thời là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ hối phiếu.
Ghi chú: Ngoài 8 nội dung bắt buộc nêu trên, người ký phát có thể điền thêm một số nội dung có tác dụng cung cấp thông tin liên quan đến việc tạo lập hối phiếu. Các nội dung này không bắt buộc phải thể hiện, nhưng có thể ghi thêm và chúng chỉ có tác dụng là thông tin tham chiếu và hướng dẫn người trả tiền, chúng không là căn cứ để trả tiền, để từ chối hối phiếu… Nội dung điền thêm thường là:
a/ Drawn under:………
Nếu là hối phiếu trong phương thức nhờ thu, thì thường là.
– Drawn under invoice(s) No(s).. …………..dated…..
– Drawn under sales contract No…………dated…
Nếu là hối phiếu trong phương thức L/C, thì thường là:
– Drawn under L/C No………
dated/wired…
issued by…
– Drawn under confimed/irrevocable L/C No……….
dated/wired…
issued by…
b/ Value received as per our invoice(s) No(s).
dated….
Do chỉ có tính chất là thông tin, nên các nội dung này người ta không chú trọng và điền một cách tuỳ tiện, không chính xác. Ví dụ, người ký phát có thể điền: “Drawn under Issuing Bank”; “Drawn under Drawee”… Điền như vậy là không chính xác, nhưng không vì thế mà hối phiếu bị từ chối.