Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, nước ta đã ban hành năm bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013. Các bản Hiến pháp này đều ra đời trong những hoàn cảnh thời điểm lịch sử nhất định nhằm thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho từng giai đoạn phát triển của đất nước.
1. Hiến pháp là gì?
Hiến pháp luôn được coi là “đạo luật gốc”, là nền tảng và cơ sở để xây dựng, phát triển toàn bộ hệ thống pháp luật của một quốc gia. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và đời sống chính trị của mỗi quốc gia; đồng thời có thể coi là tuyên ngôn chính trị của mỗi chính thể nhà nước.
Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất; đồng thời là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Hiến pháp Việt Nam “là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng nhất sau cương lĩnh của Đảng, là đạo luật gốc, quy định những vấn đề hết sức cơ bản của một Nhà nước…”
Hiến pháp tiếng Anh là: Constitution.
2. Hiến pháp năm 1946
Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp dân chủ cho nước Việt Nam. Sau 10 tháng chuẩn bị tích cực, ngày 9/11/1946, Quốc hội Khóa I (kỳ họp thứ 2) chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta, đó là Hiến pháp năm 1946.
Hiến pháp năm 1946 ra đời đã tuyên bố với tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới rằng, nước Việt Nam là một nước độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không phân biệt gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo và các quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo đảm thực hiện.
3. Hiến pháp năm 1954
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, miền Bắc là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến miền Nam.
Sự thay đổi của tình hình chính trị – xã hội nói trên đã làm cho Hiến pháp 1946 không có điều kiện áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặt khác, nhiều quy định của Hiến pháp 1946 cũng không còn phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta ở miền Bắc lúc bấy giờ.
Vì vậy, tại kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội khóa I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp lầnthứ 11, Quốc hội khóa I đã nhất trí thông qua bản Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 ra đời đã kế thừa những nội dung trong Hiến pháp năm 1946, đồng thời phản ánh đầy đủ tình hình thực tế lúc bấy giờ, phản ánh đúng đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.
Tiếp tục khẳng định tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân, các quyền tự do dân chủ của nhân dân được bảo đảm thực hiện. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
4. Hiến pháp năm 1980
Ngày 30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Từ ngày 24/6 đến 3/7/1976, Quốc hội khóa VI tiến hành kỳ họp đầu tiên. Quốc hội đã quyết định đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời, ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp do đồng chí Trường Chinh – Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm chủ tịch. Sau một thời gian làm việc khẩn trương, Ủy ban đã hoàn thành dự thảo. Bản dự thảo được đưa ra toàn dân thảo luận, đóng góp ý kiến.
Hiến pháp năm 1980, lần đầu tiên ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiến định tại Điều 4, đây là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.
5. Hiến pháp năm 1992
Sau hơn 10 năm phát triển, nhiều nội dung trong Hiến pháp năm 1980 không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước lúc bấy giờ. Tình hình thực tiễn đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân. Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết sửa đổi lời nói đầu của Hiến pháp năm 1980.
Ngày 30/6/1989, tại kỳ họp thứ V, Quốc hội khóa VIII tiếp tục ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều (57, 116, 118, 122, 123, 125) của Hiến pháp năm 1980 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực Hội đồng nhân dân trong cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của Hội đồng nhân dân. Cũng trong kỳ họp này, Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Cuối năm 1991, đầu năm 1992, bản dự thảo Hiến pháp lần thứ ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến Nhân dân. Ngày 15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992 là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào, chiến sĩ cả nước, là bản Hiến pháp của Việt Nam trong tiến trình đổi mới.
6. Hiến pháp năm 2013
Sau gần 10 năm có hiệu lực, Hiến pháp năm 1992 đã phát huy được hiệu quả là một đạo luật cơ bản, luật gốc của nhà nước, tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xây dựng bộ máy nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới phù hợp với xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế toàn cầu.
Mặc dù vậy, sau một thập kỷ, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta đã có những thay đổi nhất định, đòi hỏi Hiến pháp phải được bổ sung, sửa đổi nhằm phát huy hơn nữa hiệu lực và hiệu quả trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngày 25/12/2001 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Với 24 vấn đề được sửa đổi, bổ sung. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, từ năm 2011 đến năm 2013, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã quyết định tổ chức lấy ý kiến Nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp
Ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là bản Hiến pháp phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn thể Nhân dân, là căn cứ pháp lý bảo đảm chính trị, pháp lý vững chắc cho dân tộc ta, Nhân dân ta.
Hiến pháp năm 2013 ra đời là cơ sở pháp lý để Nhà nước ta vượt qua những thách thức mới, khó khăn mới, vững bước tiến lên trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây cũng là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc, toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Như vậy, kể từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cho đến nay, trong lịch sử lập hiến Nhà nước ta ban hành năm bản Hiến pháp, trong đó Hiến pháp năm 1992 có sửa đổi, bổ sung năm 2001. Mỗi một bản Hiến pháp ra đời đánh dấu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam qua mỗi thời kỳ; phù hợp với điều kiện chủ quan và khách quan của đất nước.
Hiến pháp hiện hành của nước ta đã và đang đi vào cuộc sống, ngày càng thể hiện rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta đang quyết tâm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.