Theo quy định tại khoản 2 Điều 58 Luật Giao thông đường bộ 2008, khi tham gia giao thông, người điều khiển phương tiện phải mang theo các loại giấy tờ sau:
– Giấy tờ tùy thân (Chứng minh nhân dân, căn cước công dân,…)
– Giấy phép lái xe (hay còn gọi là bằng lái xe)
– Giấy đăng ký xe (hay còn gọi là cà vẹt xe)
– Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc
– Đối với ô tô, ngoài 4 loại giấy tờ trên đối với ô tô thì cần xuất trình thêm Chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật, bảo vệ môi trường khi CSGT kiểm tra.
Như vậy, giấy tờ xe máy sẽ bao gồm 02 loại giấy tờ sau:
(i) Giấy đăng ký xe (cà vẹt);
(ii) Giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc.
Còn các loại giấy tờ khác như chứng minh nhân dân, căn cước công dân, giấy phép lái xe là giấy tờ của người điều khiểu phương tiện tham gia giao thông, không phải giấy tờ xe.
Ngoài ra, pháp luật quy định bản sao được cấp từ bản chính hoặc được chứng thực từ bản chính có giá trị pháp lý thay thế cho bản gốc (bản chính) theo quy định tại Điều 3 Nghị định 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Tuy nhiên, đối với các hoạt động đảm bảo an toàn giao thông đường bộ, xử lý vi phạm hành chính thì yêu cầu phải sử dụng bản gốc. Ngoài các mức phạt tiền còn có những mức phạt bổ sung trong đó có tạm giữ giấy tờ xe, vì thế người tham gia giao thông luôn phải mang giấy tờ gốc.
Đặc biệt, tại Nghị định 100/2019/NĐ-CP có quy định cho phép người tham gia giao thông xuất trình bản sao giấy tờ xe thay cho giấy tờ gốc khi CSGT kiểm tra. Theo đó, người tham gia giao thông được sử dụng bản sao giấy tờ xe kèm theo bản gốc Giấy biên nhận của tổ chức tìn dụng còn hiệu lực trong trường hợp giấy tờ xe được tổ chức tín dụng giữ bản gốc để đản bảo nghĩa vụ dân sự (thế chấp, mua trả góp,…).
Giấy tờ xe hay giấy tờ tùy thân là những vật “bất ly thân” khi ra ngoài đặc biệt là khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông. Vì thế, đừng chỉ vì sự chủ quan của bản thân mà bị xử phạt những mức phạt không đáng có lúc này.