Trong lĩnh vực ngân hàng, Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh luật ngân hàng đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm sự ổn định và minh bạch của hệ thống tài chính. Đối tượng điều chỉnh bao gồm các tổ chức tín dụng và khách hàng, trong khi phương pháp điều chỉnh liên quan đến các quy định và cơ chế giám sát nhằm bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên liên quan.
1. Luật Ngân hàng là gì?
Luật Ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động ngân hàng, các quan hệ về tổ chức hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật Ngân hàng
Luật Ngân hàng điều chỉnh hai nhóm quan hệ cơ bản:
– Các quan hệ quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng: là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng trong nền kinh tế.
– Các quan hệ tổ chức và kinh doanh Ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh Ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.

3. Phương pháp điều chỉnh của Luật Ngân hàng
Để tác động vào nhóm các quan hệ hiệu quả, phương pháp mà nhà nước sử dụng để can thiệp đó là:
– Phương pháp tác động mang tính mệnh lệnh phục tùng. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh ngân hàng như cấp giấy phép hoạt động ngân hàng, kiểm soát đặc biệt, kiểm soát tín dụng…
– Phương pháp tác động bình đẳng, thỏa thuận. Phương pháp này được áp dụng trong các quan hệ kinh doanh ngân hàng giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng trong hoạt động cấp tín dụng, góp vốn liên doanh, cung ứng các dịch vụ thanh toán…
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay, luật ngân hàng được xem là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam.