Quy phạm xung đột là quy phạm xác định luật hay quy phạm dẫn chiếu luật. Việc dẫn chiếu của quy phạm xung đột là chỉ ra hệ thống pháp luật cần áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp lí cụ thể. Hệ thống pháp luật được chỉ ra đó nhiều trường hợp là luật nước ngoài. Vấn đề là hệ thống pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu tới, bao gồm cả các quy phạm xung đột hay chỉ bao gồm các quy định trong phần luật thực định của nó mà thôi.
Thêm một lần nữa quy phạm xung đột thể hiện tính chất phức tạp, khó khăn nhưng cũng vô cùng lí thú của mình. Nếu chỉ dẫn chiếu đến phần luật thực định của luật nước ngoài thì sẽ loại trừ hiện tượng dẫn chiếu ngược. Nếu dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài trong đó bao gồm cả phần luật xung đột thì sẽ xảy ra hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba.
Dẫn chiếu ngược là hiện tượng pháp luật nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu trở lại pháp luật nước dẫn chiếu. Dẫn chiếu ngược còn được gọi là phản chí.
Ví dụ: Hai vợ chồng đều là công dân Việt Nam, đi làm việc và cư trú tại nước X. Sau thời gian mâu thuẫn kéo dài, đến tháng 6/2015 họ quyết định li hôn và đơn xin li hôn được gửi tới toà án Việt Nam, nơi cư trú trước đây của họ. Giả sử toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết và đã thụ lý vụ việc này. Giữa Việt Nam và nước X không có HĐTTTP nên toà án Việt Nam sẽ căn cứ vào quy định của pháp luật Việt Nam để giải quyết, cụ thể toà án Việt Nam căn cứ vào khoản 2 Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình 2014 để xác định luật áp dụng. Theo khoản 2 Điều 127: “Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú ở Việt Nam vào thời điểm yêu cầu li hôn thì việc li hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì giải quyết theo pháp luật Việt Nam”, và vụ việc này toà án Việt Nam xác định hai vợ chồng đương sự có nơi thường trú chung tại nước X nên sẽ áp dụng luật nước X để giải quyết việc li hôn. Song, căn cứ vào luật nước X thì việc li hôn có yếu tố nước ngoài sẽ được giải quyết theo pháp luật của nước mà hai vợ chồng mang quốc tịch, tức là luật Việt Nam.
Như vậy, trong trường hợp này toà án Việt Nam theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột (khoản 2 Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình 2014) sẽ áp dụng pháp luật nước X, là luật nơi thường trú chung của vợ chồng. Nhưng trong pháp luật nước X cũng có các quy phạm xung đột liên quan đến vấn đề này và luật nước X lại quy định trường hợp này sẽ áp dụng luật nước vợ chồng mang quốc tịch thì luật áp dụng lại là luật Việt Nam. Như vậy, ở đây có hiện tượng dẫn chiếu ngược, luật Việt Nam dẫn chiếu đến luật nước X, luật nước X lại có quy phạm dẫn chiếu ngược trở lại pháp luật Việt Nam.

Dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba là hiện tượng pháp luật nước được dẫn chiếu, dẫn chiếu đến pháp luật nước khác. Dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba còn được gọi là chuyển chí.
Ví dụ: Trong tình huống nêu trên nếu thay đổi rằng pháp luật nước X quy định li hôn có yếu tố nước ngoài sẽ áp dụng theo pháp luật của nước do các bên lựa chọn, mà hai vợ chồng này lựa chọn luật nước Y, là luật nơi có tài sản, để giải quyết việc li hôn của họ, thì hiện tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba đã xảy ra. Ở đây, pháp luật Việt Nam chỉ tới áp dụng luật nước X, pháp luật nước X lại chỉ tới áp dụng pháp luật nước Y và hiện tượng này chính là hiện tượng dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba trong tư pháp quốc tế.
Nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba là do về cùng một vấn đề, một phạm vi quan hệ nhưng hệ thống pháp luật của các nước có các quy định khác nhau về hệ thuộc luật áp dụng. Ở ví dụ trên, trong khi về vấn đề li hôn pháp luật Việt Nam quy định áp dụng hệ thuộc luật nơi thường trú chung của vợ chồng thì pháp luật nước X lại quy định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của đương sự (dẫn chiều ngược). hoặc pháp luật nước do các bên lựa chọn (dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba).
Quan điểm của các nước về việc chấp nhận dẫn chiếu hay không là không thống nhất, có nước chấp nhận có nước không, nếu chấp nhận dẫn chiếu nghĩa là khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật nước ngoài là toàn bộ hệ thống pháp luật nước đó bao gồm các quy phạm thực định cũng như các quy phạm xung đột. Còn đối với các quốc gia không chấp nhận dẫn chiếu thì khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến luật nước ngoài chỉ bao gồm các quy định của luật thực định mà thôi.
Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về vấn đề này tại khoản 1 Điều 668 Bộ luật dân sự 2015: “Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp nêu tại khoản 4 Điều này”. Như vậy, Việt Nam theo quan điểm chấp nhận dẫn chiếu, bởi pháp luật được dẫn chiếu đến gồm cả quy định về xác định pháp luật áp dụng hay còn gọi là quy định về xung đột luật, đây chính là cơ sở để có thể xảy ra hiện tượng dẫn chiếu ngược.
Việc chấp nhận dẫn chiếu không hề có hại và không vi phạm nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, khi pháp luật nước ngoài tự nguyện từ bỏ chi phối quan hệ cụ thể, vì thế điều đó không ảnh hưởng đến việc tôn trọng sự bình đẳng giữa các hệ thống pháp luật.
Khi có hiện tượng dẫn chiếu ngược, để tránh tình trạng kéo dài sự việc và tạo điều kiện giải quyết vụ việc được nhanh chóng và hiệu quả, pháp luật Việt Nam quy định sẽ áp dụng các quy định thực định của luật Việt Nam. Cụ thể, khoản 2 Điều 668 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng”.
Trong trường hợp chấp nhận dẫn chiếu ngược thì hiệu lực của quy phạm xung đột bị ảnh hưởng, vì quy phạm chỉ dẫn tới áp dụng pháp luật nước ngoài nhưng nay luật nước ngoài không được áp dụng mà áp dụng luật nước có toà án thì hiệu lực của quy phạm bị ảnh hưởng ở đó.
Cũng căn cứ vào quy định tại Điều 668 Bộ luật dân sự 2015 có thể nhận thấy đây là lần đầu tiên pháp luật Việt Nam đề cập tới trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba. Theo đó, tại khoản 3 Điều này chỉ rõ: “Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng”. Như vậy, khi xảy ra trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba thì pháp luật của nước thứ ba – phần quy định quyền, nghĩa vụ hay còn gọi là phần luật thực định – được áp dụng để điều chỉnh quan hệ.
Một vấn đề nữa liên quan đến việc dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba chính là các ngoại lệ không có hiện tượng này. Như đã phân tích ở trên, quy phạm xung đột là quy phạm xác định luật áp dụng và xét về vị trí tồn tại thì có hai loại quy phạm xung đột, quy phạm xung đột thông thường nằm trong luật quốc gia dẫn chiếu đến luật nước ngoài là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài bao gồm cả các quy phạm xung đột nên có dẫn chiếu ngược. Pháp luật Việt Nam về vấn đề này đã quy định rõ ở khoản 1 Điều 668 Bộ luật dân sự 2015: “Pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này”. Còn quy phạm xung đột thống nhất nằm trong điều ước quốc tế khi dẫn chiếu đến luật một nước nào đó thì sẽ bao hàm ý nghĩa như thế nào, dẫn chiếu đến toàn bộ hay không toàn bộ luật nước ngoài, có hay không có dẫn chiếu ngược. Trở lại nguyên nhân của hiện tượng dẫn chiếu ngược là do cùng một vấn đề nhưng quy phạm xung đột ở các nước có phần hệ thuộc khác nhau. Vì vậy, để tránh những khó khăn khi giải quyết, khi đàm phán xây dựng điều ước quốc tế các nước đã thống nhất cùng nhau tạo nên một quy phạm xung đột thống nhất, và hệ thuộc luật được lựa chọn trong quy phạm này đã thoả mãn được ý chí của các nước liên quan và họ đều mong muốn luật của chính nước đó sẽ được áp dụng mà không phải bất kì một sự chỉ dẫn nào khác. Do đó, có thể nói việc thiết lập quy phạm xung đột thống nhất trong điều ước quốc tế đã làm mất đi những điều kiện tồn tại dẫn chiếu ngược. Xu hướng của tư pháp quốc tế hiện đại ngày nay đều cho rằng không xảy ra hiện tượng dẫn chiếu ngược, dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba đối với điều ước quốc tế. Vì không có dẫn chiếu ngược nên việc chấp nhận hay không chấp nhận dẫn chiếu ngược không cần phải đặt ra.‘Về vấn đề này pháp luật Việt Nam hiện không có quy định cụ thể, tức là pháp luật Việt Nam không quy định rằng đối với quy phạm xung đột thống nhất trong điều ước quốc tế, khi dẫn chiếu là dẫn chiếu đến cả hệ thống pháp luật của nước được dẫn chiếu bao gồm cả phần luật xung đột và phần luật thực định, hay chỉ bao gồm phần luật thực định mà thôi. Tuy nhiên, xét ở cả khía cạnh thực tế thì rất khó xảy ra hiện tượng dẫn chiếu ngược trong điều kiện này vì quy phạm xung đột thống nhất là quy phạm nằm trong điều ước quốc tế, vậy nếu có dẫn chiếu ngược thì sẽ dẫn đến pháp luật nước nào trong số các quốc gia đã xây dựng hoặc tham gia điều ước quốc tế đó.
Cũng về ngoại lệ của dẫn chiếu ngược còn một trường hợp khác đó là khi các bên lựa chọn áp dụng luật của một nước thì chỉ là luật thực định của nước đó được đem vào áp dụng để điều chỉnh quan hệ giữa các bên mà không có sự dẫn chiếu ngược. Vì luật do các bên thoả thuận cũng chính là hệ thống luật họ mong muốn được áp dụng nếu không áp dụng luật đó mà dẫn chiếu ngược lại hoặc dẫn chiếu tiếp đến một nước khác thì cả hai trường hợp đó ý chí của các bên đã bị vi phạm và làm mất đi tính thoả thuận” của sự lựa chọn. Đối với trường hợp này pháp luật Việt Nam có quy định tại khoản 4 Điều 668 Bộ luật dân sự 2015: “Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này thì pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng”. Theo đó, khi các bên được pháp luật cho phép chọn luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa họ, thì pháp luật áp dụng trong trường hợp này chính là phần luật thực định của hệ thống pháp luật đã được các bên thoả thuận lựa chọn.