1. Khái niệm công nhận quốc tế
Trong quan hệ quốc tế, việc tồn tại hành vi và thực tiễn công nhận quốc tế là tất yếu khách quan, do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vì lý do các quốc gia thường không cùng xuất hiện và không hoàn toàn đồng nhất về thể chế nhà nước. Sự xuất hiện chủ thể mới trong quan hệ quốc tế ít nhiều đều có tác động nhất định đến tương quan của các mối quan hệ và liên kết quốc tế, dẫn đến những phản ứng khác nhau trong dư luận và sinh hoạt quốc tế. Những phản ứng quốc tế như vậy thường đưa đến những hệ quả pháp lý xác định, làm thay đổi hoặc củng cố thêm các mối quan hệ quốc tế đa dạng giữa các quốc gia.
Sự công nhận quốc tế có thể được xem xét trên cơ sở cai công nhận là hành vi chính trị-pháp lý, dựa trên những động cơ nhất định (chủ yếu là động cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) của giai cấp thống trị ở quốc gia công nhận. Mục đích của hành vị mang tính chất công nhận quốc tế nhằm khẳng định lại quan hệ của quốc gia công nhận đối với đường lối chính sách, chế độ chính trị, kinh tế… của bên được công nhận (chủ yếu là quốc gia và chính phủ mới thành lập) hoặc nhằm thể hiện ý định của quốc gia công nhận muốn thiết lập quan hệ bình thường và ổrt định trong nhiều lĩnh vực với bên được công nhận.
Từ những luận điểm cơ bản nêu trên, công nhận quốc tế có thể được quan niệm là hành vi chính trị pháp lý của quốc gia Công nhận dựa trên nền tảng các động cơ nhất định (mà chủ yếu là động cơ chính trị, kinh tế, quốc phòng) nhằm xác nhận sự tồn tại của thành viên mới trong cộng đồng quốc tế, khẳng định quan hệ của quốc gia công nhận đối với chính sách, chế độ chính trị, kinh tế v,v. của thành viên mới và thể hiện ý định muốn được thiết lập các quan hệ bình thường, ổn định với thành viên mới của cộng đồng quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế.
Mối quan hệ giữa công nhận quốc tế và quyền năng chỉ hề luật quốc tế, cũng như vị trí và vai trò của công nhận quốc để đối với các thành viên mới của cộng đồng quốc tế được giải quyết theo chiều hướng khác nhau. Trong khoa học luật quốc tế, có nhiều quan điểm, trường phái và học thuyết khác nhau về vấn đề này nhưng chủ yếu vẫn là hai thuyết cấu thành và tuyên bố là những thuyết thường được đề cập.
* Thuyết cấu thành
Thuyết cấu thành (hay còn gọi là Thuyết sáng lập ra chỉ thể luật quốc tế xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX, Những nguyên tắc cơ bản của học thuyết này đến bây giờ vẫn nằm trong cơ sở thực tiễn ngoại giao và hành pháp của nhiều nước. Nội dung cơ bản của thuyết cấu thành quan niệm các quốc gia mới được thành lập chỉ có thể trở thành chủ thể luật quốc tế và thành viên độc lập của Cộng đồng quốc tế nếu được các quốc gia khác chính thức Công nhận. Thuyết cấu thành là thuyết chính trị phản động và là thuyết mâu thuẫn với luật quốc tế hiện đại.
* Thuyết tuyên bố
Thuyết tuyên bố cũng là học thuyết của các luật gia quốc tế tư sản được hình thành như là trào lưu chống lại Thuyết cấu thành. Cuộc đấu tranh giữa những người theo đuổi Thuyết cấu thành và những người theo đuổi Thuyết tuyên bố thực chất là cuộc đấu tranh giữa những thế lực bảo thủ, phản động và lực lượng tiến bộ, bảo vệ những nguyên tắc dân chủ trong khoa học luật quốc tế. Những người chủ trương thuyết này cho rằng tất cả các quốc gia mới thành lập đều là chủ thể luật quốc tế và điều đó được xác định thông qua bằng chứng là quốc gia này đã xuất hiện và đang còn tồn tại trên thực tế. Việc công nhận quốc gia mới thành lập không thể tạo ra chủ thể mới của luật quốc tế mà chỉ đóng vai trò tuyên nhận sự tồn tại trên thực tế của một quốc gia.
Chẳng hạn, Viện nghiên cứu pháp luật quốc tế trong phiên họp tại Brucxen năm 1936 đã tuyên bố, sự công nhận của một hay một vài quốc gia không ảnh hưởng đến tính chất thực tại của quốc gia mới thành lập về phương diện pháp lý.
Thuyết tuyên bố là thuyết ra đời trong cuộc đấu tranh của những quốc gia dân tộc tư sản trẻ chống lại các quốc gia phong kiến quân chủ chuyên chế và trong một mức độ nhất định nào đó là thuyết tiến bộ.

2. Các thể loại công nhận quốc tế
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có những thể loại khác nhau như công nhận các dân tộc đang đấu tranh, công nhận các “chính phủ lưu vong”, công nhận các bên tham chiến, công nhận các bên khởi nghĩa… Song, công nhận quốc gia và chính phủ mới thành lập vẫn là những thể loại cơ bản của Công nhận quốc tế, nó có ý nghĩa lớn đối với thực tiễn ngoại giao cũng như lý luận luật quốc tế.
2.1. Công nhận quốc gia mới thành lập
Nhìn chung, các quốc gia từ trước đến nay có thể được thành lập theo một trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, các quốc gia có thể thành lập theo còn đường cổ điển là một tập thể con người có thể thành lập quốc gia mới cách hoà bình do sự định cư của họ trên một lãnh thổ VÔ chủ hoặc trên lãnh thổ chưa có một tổ chức chính trị phù hợp. Trường hợp này hiện nay hầu như không còn gặp nữa.
Thứ hai, quốc gia có thể được thành lập do kết quả của cách mạng xã hội. Trường hợp này khá phổ biến ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh trong thời gian sau Đại chiến thế giới thứ hai.
Thứ ba, quốc gia có thể được thành lập do kết quả hoạt động của các quốc gia đã hoặc đang tồn tại vào thời điểm thành lập đó. Trong trường hợp này, quốc gia mới có thể được thành lập theo nhiều phương thức khác nhau, chẳng hạn, sự phân chia một quốc gia đang tồn tại thành hai hoặc nhiều quốc gia độc lập, hay là sự hợp nhất hai hay nhiều quốc gia độc lập thành một quốc gia mới…
Các quốc gia mới được thành lập theo các trường hợp nói trên, không phụ thuộc và thời gian, địa điểm, các đặc điểm dân cư, lãnh thổ, hình thức nhà nước... là những chủ thể mới của luật quốc tế ngay từ thời điểm mới được thành lập. Sự công nhận quốc gia ở đây chỉ đóng vai trò tuyên bố sự tồn tại trên trường quốc tế một quốc gia mới mà thôi.
Khi công nhận một quốc gia mới thành lập, các quốc gia công nhận chỉ ra rằng thành viên mới đó của cộng đồng quốc tế là một thực thể có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản theo luật quốc tế.
2.2. Công nhận chính phủ mới thành lập
Khi một quốc gia mới được thành lập theo một trong những trường hợp nói trên thì sự công nhận quốc gia mới được thành lập thường đồng thời với công nhận chính phủ của quốc gia mới. Trong trường hợp này có sự trùng hợp tất yếu của hai thể loại công nhận – công nhận quốc gia và Công nhận chính phủ. Ngoài trường hợp đặc biệt này ra thì hai thể loại công nhận đó là hai thể loại công nhận khác nhau và độc lập với nhau.
Công nhận chính phủ mới có nghĩa là công nhận người đại diện hợp pháp cho một quốc gia có chủ quyền trong sinh hoạt quốc tế chứ không phải công nhận chủ thể mới của luật quốc tế. Công nhận chính phủ mới có ý nghĩa quan trọng như công nhận quốc gia mới thành lập. Sự công nhận chính phủ mới thường được đặt ra đối với loại chính phủ đe facto. Xét về phạm vi hoạt động và quyền lực, chính phủ de facto được phân ra làm hai loại, chính phủ de facto chung cho toàn quốc và chính phủ de facto địa phương.
Luật quốc tế không điều chỉnh và không thể điều chỉnh những quan hệ nội bộ của quốc gia. Chính vì vậy, chỉ những chính phủ đang thực hiện hiệu quả và độc lập quyền lực của mình trên toàn lãnh thổ hoặc trên một phần lớn lãnh thổ quốc gia và được đông đảo quần chúng nhân dân ủng hộ mới là đối tượng của công nhận quốc tế. Ngày nay, luật quốc tế thừa nhận nguyên tắc hữu hiệu là cơ sở để công nhận các chính phủ dc facto mới được thành lập. Nội dung nguyên tắc hữu hiệu được thể hiện rõ qua các điểm cơ bản sau:
– Chính phủ mới phải được đông đảo quần chúng nhân dân tự nguyện, tự giác ủng hộ;
– Chính phủ mới có đủ năng lực để duy trì và thực hiện quyền lực quốc gia trong một thời gian dài;
– Chính phủ mới có khả năng kiểm soát toàn bộ hoặc phần lớn lãnh thổ quốc gia một cánh độc lập và tự chủ, tự quản lý và điều hành mọi công việc của đất nước.