Chuẩn bị xét xử là giai đoạn Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự trong thời gian được xác định và chuẩn bị các vấn đề cẩn thiết khác cho việc mở phiên tòa.
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là một khoảng thời gian được xác định trước cho Thẩm phán và cán bộ giúp việc tiến hành các biện pháp tố tụng và thực tiễn chuẩn bị cho việc mở phiên tòa. Nhà làm luật ấn định thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm là nhằm mục đích tránh việc tùy tiện kéo dài thời gian vụ án, ảnh hưởng đến thời hạn chung của thủ tục tố tụng; bảo vệ kịp thời nguyên tắc xét xử kịp thời, công bằng, công khai.
Thời hạn xét xử sơ thẩm được xác định như sau:
Loại tội phạm | Thời hạn chính thức | Gia hạn |
Tội phạm ít nghiêm trọng | 30 ngày | 15 ngày |
Tội phạm nghiêm trọng | 45 ngày | |
Tội phạm rất nghiêm trọng | 02 tháng | 30 ngày |
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng | 03 tháng |
Cần lưu ý là vụ án phức tạp thì mới được gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, trên thực tế cẩn tránh lạm dụng thời hạn này. Có những trường hợp lẽ ra có thể đưa vụ án ra xét xử nhưng Thẩm phán vẫn để cho cuối thời hạn, trong khi thời hạn được xác định khá dài, chưa phân hóa triệt để vì thời hạn áp dụng chung cho mọi vụ án cùng loại tội phạm. Điều 277 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định riêng về vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung, thì hạn tối đa là 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp phục hổi vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính theo thủ tục chung kể từ ngày Tòa án ra quyết định phục hồi vụ án.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; nếu vì lý do trở ngại khách quan hoặc vì lý do bất khả kháng thì Tòa án được kéo dài thêm 15 ngày.
2. Các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong ba quyết định, gồm: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định trả hổ sơ điều tra bổ sung; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án.
2.1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Qua kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán dự liệu các vấn đề về chứng cứ, thủ tục tố tụng đã bảo đảm để mở phiên tòa thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo hoặc người đại diện của họ; gửi cho người bào chữa, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa, hoặc có thể được niêm yết tại trụ sở chính quyền địa phương theo quy định tại khoản 1 Điều 286 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chứa đựng các thông tin cơ bản, gồm:
- Thông tin tóm tắt lai lịch của bị cáo;
- Tội danh, điểm, điều, khoản do Viện kiểm sát truy tố;
- Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
- Hình thức xét xử (công khai, hay xử kín);
- Họ tên, chức danh của người tiến hành tố tụng;
- Họ tên người bào chữa (nếu có);
- Họ tên những người được triệu tập đến phiên tòa;
- Họ tên những người được mời đến dự phiên tòa (nếu có);
- Vật chứng được đưa ra xem xét tại phiên tòa.
2.2. Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung
Thẩm quyền trả hổ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc về Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án. Theo quy định tại Điều 280 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các căn cứ để Thẩm phán trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát như sau:
– Trường hợp thứ nhất, khi thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 mà không thể bổ sung tại phiên tòa được:
Trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định một trong các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung là khi cần xem xét thêm những “chứng cứ quan trọng” đối với vụ án. Tiêu chí nào để coi là chứng cứ quan trọng và chứng cứ không quan trọng? Xác định chứng cứ quan trọng hay không tuỳ thuộc vào nhận thức của Tòa án và Viện kiểm sát. Quy phạm mang tính chất tuỳ nghi như vậy là một trong những nguyên nhân của việc lạm dụng trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Bộ luật năm 2015 quy định “thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85”. Nghĩa là chứng cứ nào bị thiếu làm cho không thể chứng minh chỉ một trong những vấn đề được liệt kê tại Điều 85 là có thể bị trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tuy nhiên chứng cứ bị thiếu phải đi cùng với điều kiện là nếu không bổ sung được tại phiên tòa thì mới trả hồ sơ để yêu cẩu điều tra bổ sung. Các vấn đề phải chứng minh bao gồm:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
- Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
- Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
- Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Vấn đề đặt ra là, Điều 280 nêu trên cho phép ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán được trả hổ sơ điều tra bổ sung, nhưng Tòa án chưa mở phiên tòa, chưa qua hoạt động tố tụng tại phiên tòa thì xác định như thế nào là chứng cứ không bổ sung được và có thể bổ sung được tại phiên tòa là một việc rất khó khăn và quy định của Điều 280 chưa được chính xác.
– Trường hợp thứ hai, có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật Hình sự quỵ định là tội phạm:
Hành vi phạm tội có thể bị bỏ lọt, đó là lý do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thêm quy định mới cho Thẩm phán được trả hồ sơ điều tra bổ sung. Trước đây chỉ quy định Viện kiểm sát không truy cứu người đồng phạm khác trong vụ án, hoặc bị can, bị cáo phạm tội khác với tội phạm đã được truy tố. Nay Bộ luật mới quy định rõ ràng về việc nếu Viện kiểm sát bỏ lọt hành vi phạm tội thì bị Tòa án trả hổ sơ điều tra bổ sung, ví dụ, bên cạnh hành vi đánh bạc đã bị Viện kiểm sát truy tố, thì bị can còn có hành vi lừa đảo mà chưa bị truy tố.
Ở đây cho thấy sự chính xác khi nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “hành vi”, trước đây quy định là “bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác”. Sự chính xác của thuật ngữ pháp lý giúp việc đánh giá quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã phù hợp, chính xác hay chưa, đó là truy tố bị can ở hành vi phạm tội nào, hành vi nào chưa bị truy tố (bỏ lọt). Nếu chỉ đề cập đến phạm tội khác thì có nhiều cách hiểu khác nhau.
– Trường hợp thứ ba, có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ ấn, khởi tố bị can:
Đây là trường hợp Viện kiểm sát đã bỏ sót người đồng phạm do chưa đánh giá được đẩy đủ chứng cứ, tình tiết để xác định người đồng phạm trong vụ án. Bên cạnh đó là trường hợp một người khác phạm một tội quy định trong Bộ luật Hình sự. Tội phạm này do người khác thực hiện, mà không phải là đồng phạm trong vụ án đang xét xử, nhưng tội phạm đó có liên quan đến tội phạm đang xét xử. Ví dụ, ngoài tội giết người của A đang bị xét xử, thì còn có B – người chưa được khởi tố bị can về tội che giấu tội phạm (B là người có hành vi phạm tội che giấu tội phạm trong vụ án A giết người).
Điều luật đã bổ sung cụm từ “có người khác” thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm “liên quan đến vụ án” nhưng chưa được khởi tố bị can. Sự phù hợp ở đây là khắc phục được cách hiểu không thống nhất như trước đây giữa người đồng phạm và người phạm tội khác. Mặt khác, người khác có thể không phải là đồng phạm nhưng hành vi của họ liên quan đến vụ án, thì có thể bị xem xét khởi tố bị can.
– Trường hợp thứ tư, việc khởi tố, điêu tra, truy tô vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng:
Theo hướng dẫn thuật ngữ tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định và đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án. Có thể thấy nội dung hướng dẫn đã làm rõ 02 vấn đề, đó là chỉ được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi vi phạm đó phải để lại hậu quả là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án.
Lần đầu khái niệm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự, là một điểm mới có ý nghĩa tích cực. Trước đây, có một số văn bản hướng dẫn về vấn đề này, nhưng không giải quyết được bất cập[1]. Theo hướng dẫn tại Điều 4 nêu trên và tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì ở đó đã giải thích rõ hơn các thuật ngữ trong các căn cứ để được trả hổ sơ điều tra bổ sung và nguyên tắc phối hợp các thủ tục tố tụng về vấn đề điều tra bổ sung cho thống nhất.
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường gặp như: không yêu cầu người bào chữa cho bị can, bị cáo là người chưa thành niên; khởi tố vụ án nhưng không có yêu cầu của bị hại; chưa điều tra, lập lý lịch của bị can và xác định đặc điểm nhân thân; có hành vi mớm cung, bức cung, nhục hình; việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định nên không có giá trị chứng minh…
Cho dù đã có văn bản mới hướng dẫn cụ thể như thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thế nhưng để xác định đúng thủ tục nào bị “vi phạm nghiêm trọng” là một vấn đề phức tạp tồn tại trong nhiều năm. Vì thủ tục tố tụng được tiến hành ở mỗi giai đoạn tố tụng rất đa dạng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung trách nhiệm và thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật theo yêu cầu của Tòa án (bao gồm cả trong giai đoạn phiên tòa được mở). Có thể nói quy định này có ý nghĩa rất tích cực trong việc hạn chế trả hồ sơ điểu tra bổ sung, vì Tòa án và Viện kiểm sát có thời gian lựa chọn các giải pháp khắc phục đúng đắn, tránh cho việc trả hồ sơ một cách không cần thiết. Trường hợp Tòa án quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để truy tố lại theo quy định tại khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong quyết định trả hồ sơ phải nêu rõ tội danh nặng hơn mà Tòa án đề nghị Viện kiểm sát truy tố lại. Như vậy trong trường hợp thực hiện quy định về giới hạn của việc xét xử, Tòa án cần xử tội nặng hơn thì phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để xem xét việc truy tố lại.
2.3. Quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án
2.3.1. Quyết định tạm đình chỉ vụ án
Theo quy định tại Điểu 281 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi có các căn cứ:
– Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo; khi trưng cẩu giám định, yêu cẩu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra;
– Không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử;
– Chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Tòa án đã kiến nghị.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo mà căn cứ để tạm đình chỉ không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị cáo. Quy định tạm đình chỉ vụ án là nhằm phù hợp với thực tiễn xét xử gặp các trường hợp khách quan, đòi hỏi
phải “tạm dừng” vụ án để thực hiện các biện pháp chuyên môn thích hợp. Khi hết lý do tạm đình chỉ thì vụ án được phục hồi theo quy định tại Điều 283 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2.3.2. Quyết định đình chỉ vụ án
Đình chỉ vụ án làm cho vụ án chấm dứt các hoạt động tố tụng. Thông thường trong các trường hợp vì lý do khách quan vụ án phải được đình chỉ, kịp thời khép lại quá trình tố tụng và bảo vệ lợi ích của người tham gia tố tụng, điều đó thể hiện nguyên tắc nhân đạo, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước.
Khi có các căn cứ sau đây, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án:
- Người đã làm đơn yêu cầu khởi tố theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tự nguyện rút đơn yêu cầu khởi tố;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
- Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
2.4. Các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định cho Tòa án có quyền quyết định đối với các vấn đề:
- Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 278);
- Giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng (Điều 279);
- Quyết định phục hồi vụ án (Điều 283);
- Yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ (Điều 284);
- Việc giao, gửi các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều 286);
- Triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa (Điều 287).
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các nội dung trên nhằm giúp Tòa án thực hiện toàn diện thẩm quyền và nhiệm vụ của mình trong quá trình xét xử và tại phiên tòa và đó là trường hợp cần phải giải quyết trước khi mở phiên tòa khi có căn cứ.