Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ biên; Phân biệt chủ biên với các loại tác giả theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ và một số quy định cụ thể của pháp luật hiện hành về chủ biên.
1. Khái niệm chủ biên là gì?
Theo từ điển tiếng Việt, chủ biên là người chịu trách nhiệm chính về tổ chức soạn thảo đề cương bao gồm mục đích, nội dung, kế hoạch tiến hành biên soạn… một cuốn sách hay một bộ sách nào đó có một hoặc nhiều tác giả tham gia.
Chủ biên là người có uy tín với năng lực chuyên môn, nhìn bao quát được chủ đề và nội dung tác phẩm. Chủ biên có thể trực tiếp tham gia sáng tác, tuyển chọn các chương, mục hoặc không trực tiếp tham gia, nhưng có nhiệm vụ chủ trì, hướng dẫn việc hoàn thiện các chương, mục, bảo đảm chất lượng cho tác phẩm về cả nội dung lẫn hình thức.
Chủ biên là người chịu trách nhiệm chính trong việc sáng tạo một cuốn sách, một bộ sách (tác phẩm) trong một tập thể tác giả (có từ hai người trở lên) cùng tham gia, từ việc soạn thảo nội dung đến kế hoạch tiến hành sáng tác.
Căn cứ theo Điều 9 Quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục đại học được ban hành kèm theo Thông tư 04/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về nhiệm vụ và quyền của chủ biên/đồng chủ biên của Ban biên soạn giáo trình như sau:
– Tổ chức biên soạn giáo trình theo đúng đề cương giáo trình đã được Hiệu trưởng phê duyệt.
– Chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của giáo trình, tiếp thu, sửa chữa nội dung giáo trình theo góp ý của các nhà khoa học và ý kiến kết luận của Hội đồng thẩm định.
– Đề xuất với Hiệu trưởng thay thế hoặc bổ sung thành viên tham gia biên soạn giáo trình khi thấy cần thiết.
– Được hưởng các chế độ theo quy định hiện hành của Nhà nước và các chính sách của cơ sở giáo dục đại học đối với việc biên soạn giáo trình.
Trên đây là nội dung trả lời về nhiệm vụ và quyền của chủ biên/đồng chủ biên của Ban biên soạn giáo trình. Bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về vấn đề này tại Thông tư 04/2011/TT-BGDĐT.
2. Biên soạn là gì?
Biên soạn là công việc thu thập và chọn lọc các tài liệu liên quan đến một chủ đề nhất định như đề tài khoa học hoặc công trình nghiên cứu để viết thành bài hoặc thành sách, việc biên soạn có liên quan mật thiết đến lĩnh vực giáo dục trong việc biên soạn sách giáo khoa, giáo trình hay lĩnh vực khoa học đối với các tài liệu nghiên cứu.
Người biên soạn là tác giả của công trình biên soạn đó.
Theo khoản 8, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi 2019, tác phẩm biên soạn được bảo hộ quyền tác giả từ khi được sáng tạo ra dưới dạng tác phẩm phái sinh. Theo đó, tác phẩm biên soạn được bảo hộ bản quyền với điều kiện không được phương hại và làm ảnh hưởng đến bản quyền của tác giả và tác phẩm gốc của họ (khoản 1 Điều 6 và khoản 2 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ).

3. Chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản
Theo Quy định tại Điều 7 Luật Xuất bản 2012 – Luật số 19/2012/QH13 của Quốc hội:
1. Nhà nước có chiến lược, quy hoạch phát triển mạng lưới nhà xuất bản, cơ sở in, cơ sở phát hành xuất bản phẩm; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật cho hoạt động xuất bản; có chính sách thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản.
2. Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực xuất bản:
a) Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ – kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn quy định tại điểm b khoản này;
b) Đặt hàng để có bản thảo và xuất bản tác phẩm, tài liệu phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thị và các nhiệm vụ trọng yếu khác;
c) Mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
d) Ưu đãi lãi suất vay vốn theo quy định của pháp luật.
3. Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực in xuất bản phẩm:
a) Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ – kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo;
b) Ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.
4. Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm:
a) Ưu tiên đầu tư quỹ đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo;
b) Hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
c) Hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm; tổ chức triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm trong và ngoài nước;
d) Ưu đãi tiền thuê đất, thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước; lãi suất vay vốn đối với cơ sở phát hành xuất bản phẩm.
5. Chính sách của Nhà nước đối với việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử:
a) Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ – kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản để xuất bản xuất bản phẩm điện tử;
b) Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu đặc tả của xuất bản phẩm điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm, truy nhập, quản lý và lưu trữ xuất bản phẩm điện tử.
6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này phù hợp với từng giai đoạn phát triển của hoạt động xuất bản.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ biên
Theo quy định Điều 9 của Quy định việc biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình giáo dục đại học được ban hành kèm theo Thông tư 04/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ biên của Ban biên soạn giáo trình như sau:
– Tổ chức biên soạn giáo trình theo đúng đề cương giáo trình đã được Hiệu trưởng phê duyệt.
– Chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của giáo trình, tiếp thu, sửa chữa nội dung giáo trình theo góp ý của các nhà khoa học và ý kiến kết luận của Hội đồng thẩm định.
– Đề xuất với Hiệu trưởng thay thế hoặc bổ sung thành viên tham gia biên soạn giáo trình khi thấy cần thiết.
– Được hưởng các chế độ theo quy định hiện hành của Nhà nước và các chính sách của cơ sở giáo dục đại học đối với việc biên soạn giáo trình.
Ngoài ra, quy định về biên soạn, lựa chọn, thẩm định, duyệt và sử dụng giáo trình trung cấp chuyên nghiệp do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành kèm theo Thông tư 43/2010/TT-BGDĐT như sau:
1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chủ biên:
a) Tổ chức biên soạn giáo trình theo đúng đề cương giáo trình đã được Hiệu trưởng phê duyệt; đảm bảo chất lượng, tiến độ biên soạn và các yêu cầu chung về giáo trình được nêu tại Điều 3 của Quy định này;
b) Đề xuất với Hiệu trưởng nhà trường thay thế hoặc bổ sung thành viên ban biên soạn giáo trình khi thấy cần thiết;
c) Báo cáo với lãnh đạo Khoa, Hiệu trưởng nhà trường các vấn đề có liên quan đến việc biên soạn giáo trình khi có yêu cầu hoặc khi thấy cần thiết;
d) Tiếp thu, chỉnh sửa nội dung dự thảo giáo trình theo ý kiến kết luận của Hội đồng thẩm định giáo trình;
đ) Đảm bảo việc sử dụng kinh phí được cấp liên quan đến việc biên soạn giáo trình theo các quy định hiện hành của nhà nước;
e) Được hưởng các chế độ nhuận bút, bản quyền và các chế độ khác theo các quy định hiện hành.
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của các thành viên Ban biên soạn:
a) Chịu sự phân công, chỉ đạo về chuyên môn của Chủ biên trong quá trình biên soạn giáo trình;
b) Đảm bảo chất lượng, tiến độ biên soạn và các yêu cầu chung về giáo trình được nêu tại Điều 3 của Quy định này trong nội dung được phân công biên soạn.
c) Được hưởng các chế độ nhuận bút, bản quyền và các chế độ khác theo các quy định hiện hành.
3. Trong trường hợp việc biên soạn giáo trình do một cá nhân thực hiện thì nhiệm vụ và quyền hạn của cá nhân thực hiện được quy định tại các điểm a, c, d, đ, e khoản 1 của điều này.
5. Tác phẩm biên soạn có được xem là tác phẩm phái sinh?
Theo Khoản 8 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ thì tác phẩm biên soạn là một trong những loại hình của tác phẩm phái sinh, được bảo hộ ngay từ khi được sáng tạo ra, được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định và không được gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh (Khoản 1 Điều 6, Khoản 2 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ).
Mặc dù thủ tục đăng ký quyền tác giả tác phẩm biên soạn không bắt buộc nhưng bạn vẫn nên tiến hành đăng ký để bảo vệ tối đa quyền lợi của mình. Theo Khoản 1 Điều 34 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định thủ tục đăng ký bản quyền được thực hiện tại Cục Bản quyền tác giả hoặc Văn phòng đại diện của Cục Bản quyền tác giả tại thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng. Khi đi đăng ký thì cần chuẩn bị những giấy tờ sau (Điều 50 Luật sở hữu trí tuệ):
- Tờ khai đăng ký quyền tác giả
- Hai bản sao tác phẩm biên soạn đăng ký quyền tác giả
- Giấy ủy quyền, nếu người nộp đơn là người được ủy quyền
- Tài liệu chứng minh quyền nộp đơn, nếu người nộp đơn thụ hưởng quyền đó của người khác do được thừa kế, chuyển giao, kế thừa
- Văn bản đồng ý của các đồng tác giả, nếu tác phẩm có đồng tác giả
- Văn bản đồng ý của các đồng chủ sở hữu, nếu quyền tác giả thuộc sở hữu chung.
6. Phân biệt chủ biên với các loại tác giả theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ
Chủ biên trong một tác phẩm có nhiều tác giả tham gia rất dễ gây nhầm lẫn đối với các loại tác giả trong luật sở hữu trí tuệ. Do vậy, chúng tôi xin đưa ra các thông tin về các loại tác giả dựa theo nguồn gốc của các phẩm như sau:
+ Tác giả là những người tạo ra tác phẩm gốc (Nguyên tác): Là những người bằng lao động sáng tạo trí tuệ tạo ra tác phẩm với một nội dung, chủ đề, tư tưởng, cách thức thể hiện hoàn toàn mới.
+ Tác giả tác phẩm phái sinh: Là những người tạo ra tác phẩm từ tác phẩm của người khác đã được công bố, bao gồm:
– Tác giả dịch thuật: là người dịch tác phẩm của người khác từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật khi được diễn đạt bằng một ngôn ngữ thì phải tuân theo những nguyên tắc đặc thù của ngôn ngữ đó.
Do vậy, khi chuyển tác phẩm sang một ngôn ngữ khác thì người dịch phải sáng tạo trong cách sử dụng ngôn ngữ trên cơ sở tài năng sáng tạo, trí tuệ của mình.
– Tác giả phóng tác: Là người tạo ra tác phẩm theo phong cách sáng tạo của riêng mình từ nội dung của một tác phẩm đã công bố trước đó.
– Tác giả cải biên: Là người sáng tạo ra tác phẩm bằng cách thay đổi hình thức diễn đạt từ tác phẩm gốc.
– Tác giả biên soạn: Là người từ các tác phẩm và các tài liệu khác để tạo ra tác phẩm theo sự sáng tạo của riêng mình.
– Tác giả chú giải: Là người làm rõ nghĩa một số từ, câu hoặc địa danh trong tác phẩm đã có trước đó.
– Tác giả tuyển chọn: Là người sử dụng sự sáng tạo của mình để tập hợp một cách có chọn lọc những tác phẩm của một hay nhiều tác giả thành một tác phẩm tuyển tập hoặc tuyển chọn theo chủ đề nhất định.