3. Các câu hỏi thường gặp về quy tắc xuất xứ hàng hoá
3.1. Quy tắc xuất xứ hàng hóa là gì?
Trong thương mại quốc tế, quy tắc xuất xứ hàng hóa là tập hợp các quy định nhằm xác định quốc gia nào được coi là đã sản xuất ra hàng hóa (nước xuất xứ của hàng hóa). Trong nhiều trường hợp, các nước nhập khẩu cần biết xuất xứ hàng hóa nhập khẩu để xác định quy chế đặc biệt áp dụng cho hàng hóa đó (ví dụ tru đãi thuế quan, thuế chống bán phá giá, hạn ngạch...) Ngày nay, rất nhiều các sản phẩm được sản xuất theo các công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn thực hiện ở một nước nhằm tận dụng những lợi thế liên quan của nước đó (ví dụ nhân công, nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...). Vì vậy nếu không có các quy tắc xuất xứ thì không thể xác định được xuất xứ chính thức của các hàng hóa này để từ đó áp dụng quy chế đặc biệt liên quan, nếu có Đối với doanh nghiệp, quy tắc xuất xứ hàng hóa của từng nước có thể ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp (ví dụ khi quy tắc này được sử dụng để cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu quyết định hàng hóa của doanh nghiệp có được hưởng thuế ưu đãi theo GSP không hoặc có bị áp thuế chống bán phá giá không).
Thêm chi tiết cụ thể về quy tắc xuất xứ: v.d. mặt hàng như thế nào thì được coi là đã sản xuất ở đâu, có thể them ví dụ hoặc nơi tra cứu thêm
3.2. Mục đích của việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa?
Với việc áp dụng tương đối rộng rãi nguyên tắc ru đãi thuế quan phổ cập, hàng hóa nhập khẩu vào các nước hiện nay được áp dụng các mức thuế quan và các quy chế nhập khẩu tương tự nhau, không phân biệt hàng hóa đó có xuất xứ từ nước nào. Vì vậy trong nhiều trường hợp việc xác định xuất xứ hàng hóa là không cần thiết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những trường hợp phải xác định xuất xứ hàng hóa. Trên thực tế, mỗi nước đều có quy tắc xuất xứ hàng hóa áp dụng cho hàng nhập khẩu vào nước mình nhằm phục vụ các mục đích sau:
- Để thực thi các biện pháp/công cụ thương mại như thuế chống bán phá giá, thuế đối kháng, biện pháp tự vệ (vốn chỉ áp dụng với hàng hóa xuất xứ từ một số nước nhất định là đối tượng của các biện pháp, công cụ thương mại này);
- Xác định xem hàng hóa nhập khẩu thuộc diện áp dụng thuế tối huệ quốc (MFN) hay diện ưu đãi thuế quan (ví dụ GSP);
- Để phục vụ công tác thống kê thương mại (ví dụ xác định lượng nhập khẩu, trị giá nhập khẩu từ từng nguồn);
- Để phục vụ việc thực thi các quy định pháp luật về nhãn và ghi nhãn hàng hóa; | Để phục vụ các hoạt động mua sắm của chính phủ theo quy định.
3.3. Tại sao WTO có một Hiệp định riêng về quy tắc xuất xứ?
Việc các quy tắc xác định xuất xứ của hàng hóa nhập khẩu do các nước nhập khẩu tùy ý quy định khiến việc xác định xuất xứ trở nên phức tạp cho các nhà nhập khẩu và xuất khẩu (mỗi loại mục tiêu một quy tắc riêng, mỗi loại hàng một quy tắc riêng...). Trong khi đó số lượng các thỏa thuận ưu đãi thuế quan, các tranh chấp về quy tắc xuất xứ và cả các biện pháp trừng phạt bằng thuế quan (ví dụ thuế chống bán phá giá) trên thế giới ngày càng tăng, nhiều kiểu quy định, nhiều cách thức áp dụng khác nhau về xuất xứ hàng hóa khiến hoạt động thương mại bị cản trở không ít. Ngoài ra, cũng có tường hợp nước nhập khẩu còn sử dụng quy tắc xuất xứ với mục đích bảo hộ (ví dụ quy định quy tắc xuất xứ khó khăn để từ chối cấp hạn ngạch hoặc không cho hưởng thuế quan tru đãi) Để hạn chế tình trạng lạm dụng quy tắc xuất xứ, đơn giản hóa hệ thống này bằng các quy định mang tính hài hòa hóa giữa các nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, các nước thành viên WTO đã đi đến thống nhất về Hiệp định về quy tắc xuất xứ.
3.4. Phạm vi của Hiệp định về quy tắc xuất xứ?
Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO quy định các nguyên tắc áp dụng chung mà tất cả các nước thành viên khi ban hành và thực thi các quy định pháp luật hoặc hành chính liên quan đến việc xác định nước xuất xứ của hàng hóa đều phải tuân thủ Tuy nhiên, các nguyên tắc của Hiệp định không áp dụng cho các trường hợp quy tắc xuất xứ theo các thỏa thuận ưu đãi Hiệp định quy định 2 hệ thống các nguyên tắc liên quan đến xuất xứ bắt buộc áp dụng (trừ trường hợp quy tắc xuất xứ theo các thỏa thuận tru đãi), để áp dụng trong hai giai đoạn:
- Giai đoạn chuyển đổi (áp dụng trong quá trình Ủy ban kỹ thuật của Hiệp định hoàn thành việc hài hòa hóa các quy tắc xuất xứ);
- Giai đoạn sau chuyển đổi (khi đã đạt được các quy tắc xuất xứ thống nhất/hài hòa)
3.5. Các quy tắc của Hiệp định về xuất xứ hàng hóa áp dụng trong giai đoạn chuyển đổi?
Trong giai đoạn chuyển đổi (tức là trước khi có các quy định hài hòa hóa về xuất xứ hàng hóa), các nước thành viên WTO khi ban hành và thực thi các quy định về xuất xứ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu nêu tại Điều 2 Hiệp định Cụ thể, các quy tắc xuất xứ của các nước thành viên WTO phải đảm bảo các yêu cầu:
– Minh bạch
- Phải được định nghĩa rõ ràng
- Phải được công bố kịp thời
- Các quy tắc xuất xứ (kể cả quy tắc mới và quy tắc sửa đổi) không được có giá trị hồi tố
– Không cần trở thương mại bất hợp lý
- Không được sử dụng làm công cụ chính sách thương mại;
- Không được tạo ra sự hạn chế hoặc làm gián đoạn thương mại quốc tế;
- Không được đòi hỏi đầy đủ các điều kiện không liên quan đến việc chế tạo hay gia công sản phẩm;
– Thống nhất, không phân biệt đối xử
- Phải được áp dụng một cách nhất quán, thống nhất, không thiên vị và hợp lý;
- Quy tắc áp dụng cho nhập khẩu và xuất khẩu không được khó khăn hơn quy tắc áp dụng để xác định hàng hóa nào là hàng hóa nội địa;
- Không phân biệt đối xử giữa hàng hóa của các nước thành viên WTO
– Các yêu cầu khác
- Tiêu chuẩn xác định xuất xứ phải là các tiêu chí tích cực (tức là loại tiêu chí xác định khi nào được xem là có xuất xứ); chỉ sử dụng tiêu chuẩn tiêu cực (là loại tiêu chí xác định trường hợp nào không được xem là có xuất xứ) khi nó là một phần để làm rõ tiêu chí tích cực hoặc trong những trường hợp mà tiêu chí tích cực về xuất xứ là không cần thiết;
- Thủ tục xem xét xuất xứ không được kéo dài quá 150 ngày kể từ khi có đơn yêu cầu cấp xuất xứ của tổ chức, cá nhân;
- Thông tin do tổ chức, cá nhân cung cấp để xem xét xuất xứ phải được xem là thông tin mật và không được công bố trừ khi có yêu cầu của cơ quan tư pháp trong một thủ tục tố tụng;
- Mọi quyết định về xuất xứ (ví dụ cấp từ chối cấp chứng nhận xuất xứ) đều có thể bị khiếu kiện ra tòa hoặc theo một thủ tục độc lập với cơ quan đã ra quyết định đó.
Nguyên tắc “các tiêu chí xuất xứ phải được định nghĩa rõ ràng” được hiểu như thế nào?
Theo quy định tại Hiệp định về xuất xứ hàng hóa, các tiêu chí xuất xứ phải được định nghĩa rõ ràng. Cụ thể:
1. Trường hợp quy tắc xác định xuất xứ sử dụng tiêu chí “thay đổi mã HS” thì phải xác định rõ nhóm mã cụ thể trong một dòng thuế được sử dụng để xác định xuất xứ;
2. Trường hợp quy tắc xuất xứ sử dụng tiêu chí “giá trị tăng thêm đối với hàng hóa” thì phải xác định rõ phương pháp tính toán trị giá đó;
3. Trường hợp quy tắc xuất xứ sử dụng tiêu chí “quá trình gia công hoặc sản xuất” thì phải làm rõ quy trình được sử dụng để xác định xuất xứ.
3.6 Các quy tắc của Hiệp định về xuất xứ hàng hóa sau giai đoạn chuyển đổi?
Các nguyên tắc về xuất xứ áp dụng giai đoạn sau chuyển đổi (tức là sau khi đã hoàn thành việc hài hòa hóa các quy tắc xuất xứ) bao gồm:
1. Nguyên tắc cơ bản: Nước xuất xứ phải là nước nơi tiến hành sự thay đổi cơ bản cuối cùng đối với sản phẩm;
2. Thay đổi cơ bản về sản phẩm được xác định theo sự thay đổi mã số hải quan HS là chủ yếu;
3. Trường hợp thay đổi trong mã số hải quan HS không phản ánh sự thay đổi cơ bản về sản phẩm thì áp dụng các tiêu chí bổ sung, chủ yếu là “tỷ lệ phần trăm trị giá và/hoặc công đoạn chế biến gia công.
3.7. Quá trình hài hòa hóa các quy tắc xuất xứ?
Hài hòa hóa các quy tắc xuất xứ tương đối đa dạng và phức tạp mà các nước đang áp dụng hiện nay nhằm tạo một hệ thống thống nhất, dễ dự đoán và dễ áp dụng là mục tiêu cơ bản của Hiệp định về xuất xứ hàng hóa của WTO. Tuy nhiên đây là việc rất phức tạp, đòi hỏi nhiều nỗ lực về kỹ thuật (để tìm tiêu chí phù hợp) và chính trị (để đạt được sự đồng thuận giữa các nước thành viên WTO) nên không thể ngay lập tức làm được. Hiệp định về xuất xứ hàng hóa của WTO đã thành lập một Ủy ban (gọi là Ủy ban về quy tắc xuất xứ của WTO) để xây dựng bộ quy tắc hài hòa này. Một khi bộ quy tắc này được hoàn thành, được Đại hội đồng WTO phê chuẩn, nó sẽ được lập thành Phụ lục của Hiệp định về quy tắc xuất xứ Dự kiến công việc hài hóa hòa này phải được hoàn thành năm 1998 nhưng trên thực tế, hoạt động này đã phải gia hạn một lần đến 2006 và đến nay vẫn đang trong quá trình triển khai. Một dự thảo tương đối hoàn chỉnh đã được soạn thảo và đang được chuyển đi (nhưng đang chuyển) để lấy ý kiến các nước thành viên WTO.
3.8. Doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý gì về các quy tắc xuất xứ?
Hiện tại doanh nghiệp Việt Nam đa số quan tâm đến quy tắc xuất xứ trong các trường hợp hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan (theo GSP). Các nguyên tắc tại Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO lại không bắt buộc áp dụng đối với quy tắc xuất xứ của các nước thành viên WTO trong trường hợp này. Vì vậy hiện tại doanh nghiệp chưa thấy được lợi ích từ Hiệp định này Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định xuất xứ có thể phục vụ những mục tiêu khác của nước nhập khẩu mà doanh nghiệp buộc phải tuân thủ (đặc biệt trong các trường hợp thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ). Trong những trường hợp này, nếu doanh nghiệp hiểu biết về các nguyên tắc về xuất xứ trong Hiệp định thì có thể bảo vệ lợi ích của mình nếu nước nhập khẩu vi phạm bằng việc khiếu nại trực tiếp hoặc thông báo cho Chính phủ để có phương thức bảo vệ thích hợp.
4. Các câu hỏi thường gặp về hàng rào kỹ thuật trong WTO
4.1. Các rào cản kỹ thuật đối với thương mại là gì?
Trong thương mại quốc tế, các “rào cản kỹ thuật đối với thương mại” (technical barriers to trade) là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một nước áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu và/hoặc quy trình nhằm đánh giá sự phù hợp của hàng hoá nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó (còn gọi là các biện pháp kỹ thuật – biện pháp TBT) Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh... Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc tham nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu. Do đó chúng còn được gọi là “rào cản kỹ thuật đối với thương mại.
4.2. Có những loại “rào cản kỹ thuật” nào?
Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại của WTO phân biệt 03 loại biện pháp kỹ thuật sau đây:
1. Quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations) là những yêu cầu kỹ thuật bắt buộc áp dụng các doanh nghiệp bắt buộc phải tuân thủ).
2. Tiêu chuẩn kỹ thuật (technical standards) là các yêu cầu kỹ thuật được chấp thuận bởi một tổ chức đã được công nhận nhưng không có giá trị áp dụng bắt buộc; và
3. Quy trình đánh giá sự phù hợp của một loại hàng hoá với các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật (conformity assessment procedure)
Các nội dung thường được nêu trong quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật
1. Các đặc tính của sản phẩm (bao gồm cả đặc tính về chất lượng);
2. Các quy trình và phương pháp sản xuất (PPMs) có ảnh hưởng/tác động đến đặc tính của sản phẩm;
3. Các thuật ngữ, ký hiệu;
4. Các yêu cầu về đóng gói, ghi nhãn mác áp dụng cho sản phẩm...
4.3. Mục tiêu của Hiệp định về các Rào cản kỹ thuật đối với thương mại là gì?
Việc thông qua Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (Hiệp định TBT – Agreement on Technical Barriers to Trade) trong khuôn khổ WTO là nhằm thừa nhận sự cần thiết của các biện pháp kỹ thuật đồng thời kiểm soát các biện pháp này sao cho chúng được các nước thành viên WTO sử dụng đúng mục đích và không trở thành công cụ bảo hộ Hiệp định TBT đưa ra các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ khi ban hành và áp dụng các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật hay các quy trình đánh giá hợp chuẩn, hợp quy của hàng hoá.
Các loại hàng hoá thường là đối tượng của các biện pháp kỹ thuật
Máy móc thiết bị:
- Các công cụ lắp ráp và xây dựng chạy điện.
- Các thiết bị chế biến gỗ và kim loại
- Thiết bị y tế
- Thiết bị chế biến thực phẩm
Các sản phẩm tiêu dùng:
- Dược phẩm
- Mỹ phẩm
- Bột giặt tổng hợp
- Đồ điện gia dụng
- Đầu máy video và tivi
- Thiết bị điện ảnh và ảnh
- Ôtô
- Đồ chơi
- Một số sản phẩm thực phẩm
Nguyên liệu và các sản phẩm phục vụ nông nghiệp:
- Phân bón
- Thuốc trừ sâu
- Các hoá chất độc hại
4.4. Phân biệt các biện pháp kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh động thực vật như thế nào?
Liên quan đến các yêu cầu về đặc tính sản phẩm, quy trình sản xuất, đóng gói... bên cạnh các “biện pháp kỹ thuật” (TBT), các nước còn duy trì nhóm các “biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật” (SPS). Trên thực tế, có nhiều điểm giống nhau giữa hai nhóm biện pháp này Tuy nhiên, WTO có quy định riêng cho mỗi hai nhóm, tập trung ở hai Hiệp định khác nhau (với các nguyên tắc khác nhau) Tiêu chí để phân biệt hai nhóm biện pháp này là mục tiêu áp dụng của chúng:
- Các biện pháp SPS hướng tới mục tiêu cụ thể là bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ con người, vật nuôi, động thực vật thông qua việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và ngăn chặn các dịch bệnh;
- Các biện pháp TBT hướng tới nhiều mục tiêu chính sách khác nhau (an ninh quốc gia, mỗi trường, cạnh tranh lành mạnh...).
Việc phân biệt khi nào một biện pháp là TBT hay SPS là rất quan trọng đối với doanh nghiệp bởi mỗi loại biện pháp sẽ chịu sự điều chỉnh của các nguyên tắc và quy định riêng của WTO; trên cơ sở đó, doanh nghiệp biết bảo vệ quyền lợi của mình bằng phương pháp nào thì thích hợp.
Phân biệt “biện pháp TBT” và “biện pháp SPS”
Ví dụ 1: Các quy định về thuốc sâu
- Quy định về lượng thuốc sâu trong thực phẩm hoặc trong thức ăn gia súc nhằm bảo vệ sức khoẻ con người hoặc động vật: Biện pháp SPS;
- Quy định liên quan đến chất lượng, công năng của sản phẩm hoặc những rủi ro về sức khoẻ có thể xảy ra với người sử dụng: Biện pháp TBT.
Ví dụ 2: Các quy định về bao bì sản phẩm
- Quy định về hun khử trùng hoặc các biện pháp xử lý khác đối với bao bì sản phẩm (tẩy uế nhằm tránh lây lan dịch bệnh): Biện pháp SPS;
- Quy định về kích thước, kiểu chữ in, các loại thông tin về thành phần, loại hàng trên bao bì: Biện pháp TBT
(Xem thêm Phần về các biện pháp vệ sinh động thực vật)
4.5. WTO quy định những nguyên tắc gì về các biện pháp kỹ thuật?
Theo Hiệp định TBT, khi ban hành các quy định về kỹ thuật đối với hàng hoá, mỗi nước thành viên WTO đều phải đảm bảo rằng việc áp dụng các quy định này là:
- Không phân biệt đối xử;
- Tránh tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế (nếu có thể dùng các biện pháp khác ít hạn chế thương mại hơn);
- Hài hoà ;
- Có tính đến các tiêu chuẩn quốc tế chung:
- Đảm bảo nguyên tắc tương đương và công nhận lẫn nhau (với các nước khác);
- Minh bạch;
Đây là những công cụ quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để bước đầu nhận biết một biện pháp kỹ thuật có tuân thủ WTO hay không để từ đó có biện pháp khiếu nại, khiếu kiện hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
4.6. Nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp TBT riêng đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam hay không?
Theo nguyên tắc không phân biệt đối xử được ghi nhận trong Hiệp định TBT thì nước nhập khẩu là thành viên WTO có nghĩa vụ:
- Không đặt ra các biện pháp kỹ thuật khác nhau cho hàng hoá tương tự đến từ các nước thành viên khác nhau của WTO (nguyên tắc tối huệ quốc);
- Không đặt ra các biện pháp kỹ thuật cho hàng hoá nước ngoài cao hơn biện pháp kỹ thuật áp dụng cho hàng hoá tương tự nội địa của mình (nguyên tắc đối xử quốc gia).
Như vậy, về cơ bản, một nước không được đặt ra các biện pháp kỹ thuật khác nhau cho hàng hoá tương tự nhau. Điều này có nghĩa hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang một nước thành viên WTO sẽ chỉ phải tuân thủ các biện pháp kỹ thuật áp dụng cho hàng hoa tương tự trong nội địa nước đó và hàng hoá tương tự nhập khẩu từ tất cả các nguồn khác Ngược lại, Việt Nam cũng không thể ban hành và áp dụng các biện pháp kỹ thuật đối với hàng hoá nhập khẩu mức cao hơn hoặc thấp hơn mức áp dụng cho hàng hoá nội địa.
Ví dụ về nguyên tắc không phân biệt đối xử về các biện pháp kỹ thuật
Giả sử Hoa Kỳ chế biến và sản xuất thịt gà và đồng thời cũng nhập khẩu thịt gà chế biến từ Việt Nam và Thái Lan (ba nước đều là thành viên WTO). Nếu thịt gà chế biến nói đến ở đây là loại hàng tương tự nhau (cùng lấy từ lườn gà, cùng được sơ chế và để đông lạnh.....), theo nguyên tắc không phân biệt đối xử, Hoa Kỳ phải:
– Áp dụng cùng một mức thuế nhập khẩu và các quy định về nhãn mác, đóng gói, yêu cầu về chất | lượng...cho thịt gà nhập từ Việt Nam và Thái Lan;
– Không áp dụng các loại thuế nội địa thấp hơn và biện pháp kỹ thuật ưu đãi hơn cho thịt gà chế biến trong nội địa Hoa Kỳ so với thịt gà nhập khẩu từ Việt Nam và Thái Lan.
4.7. Làm thế nào để doanh nghiệp biết một biện pháp kỹ thuật “gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại”?
Theo Hiệp định TBT, các biện pháp kỹ thuật mà mỗi nước thành viên WTO áp dụng không được gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại. Nguyên này được hiểu theo cách thức khác nhau tuỳ thuộc vào loại biện pháp kỹ thuật được áp dụng. Cụ thể:
– Đối với các quy chuẩn kỹ thuật (bắt buộc): Một quy chuẩn kỹ thuật “không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại” được hiểu là:
- Nhằm thực hiện một mục tiêu hợp pháp;
- Không thắt chặt hoạt động thương mại ở trên mức cần thiết để đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách.
– Đối với các tiêu chuẩn kỹ thuật (không bắt buộc):
Không có quy định rõ ràng để xác định khi nào một tiêu chuẩn kỹ thuật “không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại”. Tuy nhiên, hiện đang có xu hướng hiểu các điều kiện này tương tự như cách hiệu trong trường hợp các quy chuẩn kỹ thuật nói trên.
– Đối với quy trình đánh giá sự phù hợp:
Một quy trình đánh giá hàng hóa được xem là “không gây ra cản trở không cần thiết đối với thương mại” khi nó không chặt chẽ hơn mức cần thiết đủ để nước nhập khẩu có thể tin tưởng rằng sản phẩm liên quan phù hợp với các quy chuẩn hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định.
Khi nào một biện pháp kỹ thuật được coi là phục vụ một “mục tiêu hợp pháp”?
Hiệp định TBT liệt kê một số ví dụ về các mục tiêu hợp pháp có thể chấp nhận được, bao gồm:
- Các yêu cầu về an ninh quốc phòng;
- Ngăn chặn hành vi lừa đảo;
- Bảo vệ sức khoẻ và tính mạng con người;
- Bảo vệ sức khỏe và an toàn động vật; Bảo vệ môi trường; và
- Các mục tiêu khác (ví dụ mục tiêu tiêu chuẩn hoá các sản phẩm điện – điện tử, tiêu chuẩn chất lượng…)
Khi nào một biện pháp kỹ thuật được xem là “ở mức cần thiết”?
Một biện pháp kỹ thuật được xem là “ở mức cần thiết để bảo vệ các mục tiêu chính đáng nếu không còn bất kỳ một biện pháp nào khác cho phép đạt được mục tiêu đó mà lại ít cản trở thương mại hơn và không vi phạm hoặc vi phạm ít hơn các quy định của WTO (Vụ Thái Lan – Các biện pháp hạn chế nhập khẩu và Thuế nội địa đối với Thuốc lá điếu);
Những biện pháp kỹ thuật được xây dựng dựa trên hoặc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế được mặc nhiên xem là đáp ứng điều kiện không gây cản trở không cần thiết đến thương mại”.
Việc xác định một biện pháp kỹ thuật có gây ra “cản trở không cần thiết đến thương mại” hay không là rất phức tạp và cần sự hỗ trợ của các chuyên gia. Tuy nhiên, đây lại là điều có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi nếu chúng minh được một yêu cầu kỹ thuật không đáp ứng được nguyên tắc này của WTO, doanh nghiệp có thể sẽ không phải tuân thủ các yêu cầu đó (nước áp dụng phải loại bỏ chúng theo các quy định của WTO).
Vì vậy nếu doanh nghiệp có được các thông tin liên quan, ví dụ biết rằng có biện pháp khác ít cản trở hơn mà vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát như biện pháp kỹ thuật đang áp dụng, doanh nghiệp có thể khiếu nại trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu hoặc thông báo cho Chính phủ nước mình để có cách xử lý thích hợp, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp.
4.8. Các biện pháp kỹ thuật có phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế liên quan không?
Theo Hiệp định TBT, đối với các quy chuẩn kỹ thuật (technical regulations), nếu đã có những tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế chung liên quan thì các nước thành viên WTO phải áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế đó để xây dựng quy chuẩn kỹ thuật nội địa của mình. Quy định này tạo ra một sự thống nhất tương đối về quy chuẩn kỹ thuật đối với hàng hoá ở các nước khác nhau, vì thế tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu (ví dụ khi doanh nghiệp xuất cùng một mặt hàng đi nhiều nước). Tuy nhiên, một nước có thể không sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế chung nếu các tiêu chuẩn này không hiệu quả và không thích hợp để đạt được mục tiêu quốc gia của mình (có thể vì lý do địa lý, khí hậu, công nghệ...). Trong trường hợp này, nếu quy chuẩn kỹ thuật dự kiến áp dụng có ảnh hưởng rõ rệt đến thương mại (so với các tiêu chuẩn quốc tế liên quan), nước thành viên có nghĩa vụ:
- Công bố dự thảo các quy chuẩn kỹ thuật.
- Tạo cơ hội để các chủ thể liên quan được bình luận về dự thảo đó.