Việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu giúp bạn có thể hiểu được tâm lý của đối tượng. Tuy nhiên, nếu phải tiếp xúc với một đối tượng, mà họ thiếu thành khẩn khai báo hoặc lì lợm, không chịu khai báo, ta sẽ làm gì trong trường hợp này để đạt được mục đích của mình ta có thể sử dụng một công cụ rất hữu hiệu để’ làm các đối tượng phải thay đổi thái độ và hành vi xử sự của họ, đó là các phương pháp tác động tâm lý.
1. Mục đích sử dụng
Tác động tâm lý là những cách thức, những biện pháp được sử dụng để làm ảnh hưởng, làm thay đổi các đặc điểm tâm lý nhân cách con người nhằm đạt những mục đích nhất định.
Trong hoạt động tư pháp, tác động tâm lý được hiểu là một hệ thống những tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể tiến hành tố tụng tới các chủ thể khác trong hoạt động tố tụng nhằm làm chuyển biến, thay đổi những đặc điểm tâm lý nào đó ở họ, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động tư pháp. Việc sử dụng các phương pháp tác động tâm lý nhằm các mục đích sau:
– Làm thay đổi tâm lý của đối tượng bị tác động nhằm thu thập những thông tin cần thiết, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Với mục đích này, các phương pháp tác động tâm lý có thể được dùng để tác động đến nhận thức của đối tượng. Ví dụ, khi một người làm chứng không thể mô tả lại chính xác một tình tiết nào đó, điều tra viên sẽ tác động đến tư duy và trí nhớ của anh ta, giúp anh ta nhớ lại được chính xác sự việc.
Trong nhiều trường hợp, để làm sáng tỏ được sự thật của vụ án thì cần phải làm thay đổi thái độ của người khai báo. Bạn có thể sử dụng các phương pháp tác động tâm lý để đạt được điều này. Ví dụ, khi đương sự cố tình nói ra những tinh tiết để làm thay đổi sự thật thì thẩm phán sử dụng phương pháp tác động tâm lý phù hợp với người này, làm cho anh ta có thái độ đúng đắn trong việc cung cấp chứng cứ.
– Nhằm giáo dục cải tạo và cảm hoá người phạm tội. Với mục đích này, các phương pháp tác động tâm lý được sử dụng để tác động đồng thời đến nhận thức, tình cảm, ý chí của người phạm tội, làm hình thành ở họ thái độ phê phán đối với hành vi đã thực hiện, từ đó mà giáo dục, cải tạo lại tâm lý của họ.
– Làm tăng tính tích cực của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng, từ đó giáo dục ý thức pháp luật cho các công dân.
Các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng đóng một vai trò quan trọng đối với hoạt động tư pháp. Ý thức và thái độ của họ có ảnh hưởng nhất định đến sự hợp tác của họ với cơ quan tiến hành tố tụng. Việc sử dụng phương pháp tác động tâm lý đến các chủ thể này sẽ làm hình thành ở họ thái độ đúng đắn đối với hoạt động, làm cho họ tích cực cộng tác với các cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Các nguyên tắc sử dụng
Việc sử dụng tác động tâm lý trong hoạt động tư pháp phải đạt được hiệu quả là thay đổi được tâm lý và hành vi của đối tượng tác động. Mặt khác, tác động tâm lý phải không được vi phạm pháp luật và đảm bảo được quyền công dân của họ. Để thoả mãn các tiêu chí nói trên, tác động tâm lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
– Nguyên tắc thứ nhất: phải căn cứ vào đặc điểm tâm lý của khách thể để thực hiện tác động tâm lý. Nguyên tắc này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải nắm được các đặc điểm tâm lý của đối tượng tác động gồm: những đặc điểm ổn định (ý chí, tính cách, thói quen…) và những đặc điểm nhất thời (trạng thái tâm lý, xúc cảm, những mâu thuẫn nội tâm), trên cơ sở đó mà xác định phương pháp, hình thức tác động cho phù hợp.
– Nguyên tắc thứ hai: người sử dụng phải có tri thức, hiểu biết về các quy luật phát sinh, phát triển và biểu hiện của các hiện tượng tâm lý. Những tri thức này giúp người tiến hành tố tụng theo dõi, kiểm soát và điều chỉnh quá trình tác động một cách phù hợp để đạt kết quả. Ví dụ, khi tác động cần phải biết đến quy luật “thích ứng” của xúc cảm tình cảm. Quy luật này ảnh hưởng đến tính chủ động trong hành vi của đối tượng. Với những đối tượng mới phạm tội, về mặt xúc cảm họ chưa thích ứng với hoạt động tố tụng. Hành vi của họ bị động, lúng túng. Còn với những đối tượng đã có tiền án, tiền sự thì họ đã thích ứng về mặt cảm xúc với các điều kiện của hoạt động tố tụng.
Hành vi của những đối tượng này chủ động và khôn khéo hơn. Phụ thuộc vào từng đối tượng khác nhau trong các trường hợp trên mà ta sẽ phải lựa chọn các biện pháp tác động tâm lý khác nhau.
– Nguyên tắc thứ ba: phải xác định rõ mục đích và kế hoạch tác động, dự đoán quá trình tác động, phản ứng của đối tượng… mà từ đó chuẩn bị cho mình thái độ và hành động phù hợp trước những phản ứng đó.
– Nguyên tắc thứ tư: phải tính đến điều kiện, hoàn cảnh mà trong đó xảy ra quá trình tác động tâm lý. Các điều kiện bên ngoài như thời gian, địa điểm, số’ người tham gia thực hiện tác động tâm lý… có ảnh hưởng đến sự tập trung chú ý của khách thể, đến quá trình cung cấp và tiếp nhận thông tin từ đó ảnh hưởng đến kết quả của tác động tâm lý. Ví dụ: tiếng ồn lớn làm cho phương pháp truyền đạt thông tin bằng lời nói khó đạt được kết quả như mong muốn.
Nguyên tắc thứ năm: phải đảm bảo tính tích cực tâm lý cho đối tượng tác động. Kết quả của tác động tâm lý không chỉ phụ thuộc vào chủ thể tác động, mà còn phụ thuộc vào tính tích cực của đối tượng trong quá trình tác động, nghĩa là người bị tác động có “sẵn sàng” tiếp nhận tác động và “sẵn sàng” phản ứng hay không? Nếu họ quá thụ động, tỏ thái độ bất cần, không quan tâm thì mục đích tác động tâm lý sẽ không đạt được. Vì vậy, người tiến hành tố tụng phải tạo ra những điều kiện để đảm bảo cho tính tích cực tâm lý của đối tượng tiếp nhận tác động.
– Một nguyên tắc quan trọng mà người tác động phái tuân thủ là: việc sử dụng các phương pháp tác động tâm lý phải đúng pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Các phương pháp tác động tâm lý sẽ dẫn đến thay đổi tâm lý và hành vi của đối tượng. Việc sử dụng chúng một cách tuỳ tiện sẽ dẫn tới những vi phạm quyền công dân. Nguyên tắc này đảm bảo cho việc tác động tâm lý không vi phạm các quy định của pháp luật, không ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của người tham gia tố tụng, không làm giảm khả năng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật.

3. Các phương pháp tác động tâm lý
3.1. Phương pháp truyền đạt thông tin
Nội dung của phương pháp truyền đạt thông tin là sử dụng những thông tin có ý nghĩa với đối tượng làm phương tiện tác động đến tâm lý của họ để đạt những mục đích nhất định. Các thông tin này, sau khi được tiếp nhận, sẽ đi sâu vào các quá trình trí tuệ, làm Thay đổi nhận thức, làm xuất hiện những xúc cảm và dẫn đến những thay đổi trong thái độ và hành vi của người tiếp nhận thông tin. Ví dụ, một đối tượng đã không chịu khai nhận hành vi bắn chết người mà nại ra rằng, trong lúc giằng co giữa anh ta với nạn nhân thì súng bị cướp cò và nố vào người nạn nhân. Điều tra viên liền đọc cho anh ta nghe kết luận của bản giám định pháp y về vết đạn trên người nạn nhân. Những thông tin đó khiến anh ta thấy không thể chối cãi được và cúi đầu nhận tội.
Trong hoạt động lố tụng, những thông tin được dùng để truyền đạt đến đối tượng phải có tính khách quan. Quá trình truyền đạt thông tin phải đảm bảo tính độc lập của họ trong việc tiếp nhận, phân tích, đánh giá thông tin và đi đến những quyết định cụ thể.
Hình thức của phương pháp truyền đạt thông tin rất đa dạng. Có thế dùng lời nói, có thể dùng tài liệu, ảnh, bằng hình, bảng ghi âm hoặc những đồ vật cụ thế (con dao, cái búa, hòn đá…). Hình thức truyền đạt thông tin cũng có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong hoạt động điều tra, có những trường hợp cơ quan điều tra đưa tin qua người thứ ba, qua dư luận hoặc qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, tivi…) đánh động đối tượng phạm tội đang lẩn trốn, làm họ hoang mang, dao động và từ đó quyết định đầu thú.
Phương pháp truyền đạt thông tin thường được sử dụng trong những trường hợp sau:
– Khi cần làm tăng tri thức, hiểu biết của người tiếp nhận thông tin. Ví dụ. trong quá trình nghị án, thẩm phán có thể dùng phương pháp truyền đạt thông tin đế giúp hội thẩm nắm bắt được những quy định cụ thể của pháp luật.
– Khi cần giúp người tham gia tố tụng tái hiện những tình tiết bị quên hoặc nhầm lẫn.Việc tiếp nhận thông tin sẽ làm tích cực hóa hoạt động trí tuệ của người tham gia tố tụng, làm xuất hiện trong đầu óc họ những liên tưởng, tạo khả năng nhớ lại tình tiết bị quên.
– Khi cần làm thay đổi thái độ, lập trường của người tham gia tố tụng. Việc cung cấp thông tin tạo điều kiện để người tham gia tố tụng phân tích, xem xét lại thái độ và quyết định của mình, làm xuất hiện khả năng thay đổi quyết định đó.
– Khi cần làm xuất hiện những xúc cảm, tình cảm nhất định, hoặc thay đổi trạng thái cảm xúc của người tham gia tố tụng. Những thông tin có ý nghĩa đặc biệt được đưa ra vào thời điểm bất ngờ, tác động mạnh lên người bị tình nghi, bị can, bị cáo… làm họ không tự chủ được và phải từ bỏ thái độ ngoan cố của mình. Chiến thuật “hòi bất ngờ vào yếu điểm” trong khoa học điều tra hình sự chính là một biểu hiện cụ thể của phương pháp truyền đạt thông tin trong trường hợp này.
3.2. Phương pháp thuyết phục
Nội dung của phương pháp thuyết phục là đưa ra những sự kiện, những tình huống cụ thể, phân tích, giải thích giúp đối tượng thấy rõ đúng, sai, lợi, hại, tốt. xấu… nhầm thay đổi thái độ. quan điểm, lập trường của họ, hoặc xây dựng quan điểm mới.
Ví dụ: Khi tham gia tranh luận, để bào chữa cho bị cáo có hành vi giết người trong tình trạng thần kinh bị kích động mạnh, luật sư có thể đưa ra đề nghị về mức án theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và phân tích tác dụng của việc giảm nhẹ mức hình phạt đó đối với việc giáo dục bị cáo, từ đó mà tác động tới Hội đồng xét xử. Có nhiều hình thức thuyết phục:
– Thuyết phục logic. Hình thức này là thông qua sự phân tích, lập luận chặt chẽ để tác động vào nhận thức của đối tượng, từ đó dẫn đến sự thay đổi về thái độ, lập trường của họ.
– Thuyết phục tình cảm. Hình thức này chủ yếu tác động vào lĩnh vực tình cảm, gợi lên những xúc cảm, tình cảm tích cực có lợi cho việc thay đổi Thái độ, lập trường của đối tượng.
– Thuyết phục thông qua cổ động, tuyên truyền. Ví dụ, thông qua cổ động, tuyên truyền pháp luật mà thuyết phục người dân về sự cần thiết phải sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Khi sử dụng phương pháp thuyết phục cần phải chú ý đến các yêu cầu sau:
+ Luận điểm đưa ra phải rõ ràng và có cơ sở. Sự phân tích các luận điểm đó cần có những dẫn chứng cụ thể minh hoạ.
+ Lời nói phải ngắn gọn và có trọng tâm, không nên dài dòng, tràn lan. Ngôn ngữ và cách lập luận phải phù hợp với khả năng nhận thức của đối tượng.
+ Không nên tìm mọi cách để áp đặt quan điểm của mình và chỉ tập trung phê phán đối tượng. Khi thuyết phục hay tranh luận, ta cần tôn trọng đối tượng bằng cách bình tĩnh lắng nghe và biết thừa nhận những điểm có lý trong ý kiến của họ. Làm như vậy, đối tượng sẽ trở nên dễ bị thuyết phục hơn khi ta trình bày, chứng minh lẽ phải của mình.
+ Cần tác động đồng thời đến cả nhận thức, tình cảm và ý chí của đối tượng. Nhận thức là điều kiện quan trọng đe con người đi đến một quyết định, một việc làm nào đó. Tuy nhiên, chỉ có nhận thức không thôi thì chưa đú. Trong cuộc sống, ta vẫn thấy có những khi con người biết rõ phải, trái, nhưng họ không hành động theo lẽ phải. Đó là vì, mong muốn làm theo cái đúng ớ họ chưa đủ lớn, ý chí chưa đủ mạnh để từ bỏ cái sai và đi theo cái dũng. Do đó, trong thuyết phục, ngoài việc phân tích, lập luận, chứng minh cho đối tượng thấy rõ lẽ phải, con đường nên đi, ta còn cần biết gợi những tình cảm nhất định, động viên, khuyến khích đối tượng đi theo con đường mà ta đã chỉ ra.
Thuyết phục là một nghệ thuật. Để thuyết phục người khác, ta phải có khả năng hùng biện, phải nắm bắt được tâm lý, những mâu thuẫn, những dao động của họ. Đồng thời, phải biết kết hợp các biểu cảm ngôn ngữ với các biểu cảm phi ngôn ngữ, biết sử dụng các thủ thuật gây sự chú ý và duy trì nó trong suốt quá trình thuyết phục. Trong những trường hợp phức tạp, ta phải đi dần từng bước để tiến tới chinh phục hoàn toàn đối tượng.
Trong hoạt động tố tụng, phương pháp thuyết phục được sử dụng rất phổ biến. Đối tượng thuyết phục ờ dây không chỉ là người tham gia tố tụng, mà trong những trường hợp cụ thể còn là những người tiến hành tố tụng. Ví dụ, trong quá trình tranh luận tại phiên toà, mục đích cuối cùng của các bên tham gia tranh luận là thuyết phục Hội đồng xét xử về tính cứng rắn, hợp tình, hợp lý của cách nhìn nhận, đánh giá vụ án và của những đề xuất mà họ đưa ra.
3.3. Phương pháp giao tiếp tâm lý có điều khiển
Giao tiếp là sự tiếp xúc giữa con người với con người nhằm thực hiện những mục đích nhất định. Đặc biệt, giao tiếp trong hoạt động tư pháp luôn diễn ra sự tác động qua lại giữa các chủ thể, biểu hiện ở những thay đổi về xúc cảm và hành vi, ở sự đồng tình, hậu thuẫn hay mâu thuẫn, chống đối của chủ thể này đối với chủ thể khác. Chính vì vậy, trong hoạt động tố tụng, giao tiếp còn được sử dụng như một phương pháp tác động tâm lý. Trong trường hợp này, các quan hệ giao tiếp với đối tượng tác động được chủ thể tác động thiết lập, điều khiển nhằm hướng và tăng cường sự tác động lên tâm lý của họ để đạt mục đích mong muốn. Ví dụ: khi lấy tiến hành đối chất giữa hai đương sự trong vụ án dân sự, thẩm phán thiết lập giao tiếp giữa họ, điều khiển và sử dụng các giao tiếp đó để giải quyết mâu thuẫn trong các thông tin do họ đưa ra.
Như vậy, giao tiếp có điều khiển là phương pháp mà chủ thể tác động thiết lập, điều khiển và sử dụng giao tiếp của các đối tượng để tác động đến tâm lý của họ nhằm đạt được các mục đích.
Trong hoạt động tư pháp, phương pháp này được người cán bộ tư pháp sử dụng thường xuyên trong mọi tình huống.
3.4. Phương pháp mệnh lệnh
Mệnh lệnh là phương pháp cưỡng chế tâm lý, đòi hỏi đối tượng tác động phái thực hiện, hoặc chấm dứt ngay một hành động nào đó, không phụ thuộc vào ý muốn của họ. Ví dụ, khi khám xét một địa điểm nào đó, điều tra viên sử dụng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc đối tượng có liên quan phải thực hiện những hành vi nhất định, phục vụ cho việc khám xét. Trong trường hợp này, đối tượng phải có nghĩa vụ chấp hành ý chí của điều tra viên.
Để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có hiệu quả, việc sử dụng phương pháp mệnh lệnh trong hoạt động tố tụng hình sự là cần thiết.
Tuy nhiên, do tính cưỡng chế cao nên đối tượng bị tác động sẽ không có sự tự do về mặt ý chí. Việc sử dụng phương pháp này cần thận trọng để tránh vi phạm quyền công dân. Trong hoạt động tố tụng hình sự, phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở giai đoạn thi hành án nhằm giáo dục phạm nhân, đưa họ vào nề nếp của trại giam, tao cho họ những Thói quen, những khuôn mẫu hành vi mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.
3.5. Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy
Nội dung của phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy là đưa những vấn đề cụ thể dưới dạng câu hỏi để kích thích, định hướng và phát triển hoặc thay đổi quá trình tư duy ở đối tượng bị tác động, từ đó ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi của họ. Ví dụ, khi lấy lời khai của đương sự, thẩm phán đặt ra những câu hỏi có liên quan đến sự việc. Tiếp nhận các câu hỏi này, đương sự tư duy và nhớ lại những tình tiết cần thiết. Quá trình tư duy nảy sinh dưới tác động của tình huống có vấn đề.
Con người tư duy theo hướng nào, sử dụng những thông tin gì để giải quyết vấn đề đặt ra, phụ thuộc vào nội dung và cách biểu đạt vấn đề. Vì vậy, trong xét hỏi, việc cân nhắc, xác định phương hướng, chiến thuật xét hỏi có ý nghĩa lớn. Toàn bộ các tình tiết của vụ án là một chuỗi mắt xích bí mật có độ bcn vững khác nhau. Chọn mắt xích nào và bằng cách nào để đột phá vào chuối bí mật đó là một vấn đề không đơn giản và nhiều khi người cán bộ xét hỏi phải mài nhiều thời gian và công sức mới xác định được. Nghệ thuật của người cán bộ xét hỏi được thể hiện chính ở chỗ: biết đặt ra những câu hỏi buộc người bị xét hỏi khi trả lời phải sử dụng những thông tin khách quan mà người cán bộ xét hỏi quan tâm.
Phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy thường được sử dụng trong những trường hợp sau đây:
– Giúp người cung cấp thông tin nhớ lại tình tiết bị quên. Trong trường hợp này, câu hỏi đặt ra nhằm tác động đến tư duy và trí nhớ của đối tượng. Câu hỏi sẽ có tác dụng tích cực hóa hoạt động trí tuệ, hoạt động trí nhớ của người cung cấp thông tin, làm xuất hiện trong đầu óc họ những liên tưởng giữa vân để được nêu lên với các tình tiết liên quan, tạo khả năng nhớ lại tình tiết mà họ đã quên.
– Thay đổi thái độ, quan điểm, lập trường của đối tượng tác động. Trong trường hợp này, câu hỏi đặt ra nhằm tác động đến tư duy và từ đó ảnh hưởng đến thái độ, tình cảm của đối tượng, làm xuất hiện những thái độ và xúc cảm cần thiết.
Nhận thức của mỗi người, dù ở mức độ nào, luôn bị chi phối bởi đặc điểm tâm lý, điều kiện hoàn cảnh thực tế, vị trí tố tụng… của người đó. Khi phân tích, đánh giá tình huống để đưa ra những quyết định hành động, để xác định thái độ, quan điểm, lập trường của mình, không phải khía cạnh nào, mặt nào, vấn để nào cũng được xem xét và xem xét một cách kỹ lưỡng.
Vì vậy, việc nêu lên những vấn đề bị bỏ sót hoặc ý nghĩa của chúng chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ sẽ giúp con người xem xét lại quyết định, thái độ. lập trường của mình, tạo khả năng thay đổi chúng. Với ý nghĩa này, phương pháp đặt và thay đổi vấn để tư duy không những được sử dụng trong hoạt động điều tra, trong xét hỏi tại phiên tòa, trong tranh luận tại phiên tòa mà cá trong quá trình giam giữ, cải tạo phạm nhân. Đấu tranh với đối tượng có thái độ khai báo không đúng đắn.
Trong trường hợp người bị xét hỏi (bị can, bị cáo, người làm chứng…) cố ý khai báo không đúng sự thật, người cán bộ xét hỏi có thể sử dụng thủ thuật thay đổi vấn đề tư duy, nghĩa là nêu liên tiếp các câu hỏi về nhiều vấn đề khác nhau, làm thay đổi tư duy của đối tượng liên tục theo nhiều hướng khác nhau, kết quả làm đối tượng bị động hoặc có mâu thuẫn trong lời khai. Cơ sở của việc làm này như sau:
+ Thứ nhất, sự chuẩn bị lời khai man của người bị xét hỏi luôn mang tính chủ quan, không thể bao quát toàn bộ tình huống thực tế. Việc nêu liên tiếp nhiều câu hỏi về những vấn đề khác nhau sẽ làm họ lúng túng, bị động khi gặp vấn đề chưa chuẩn bị và trả lời để mâu thuẫn với những gì đã khai báo.
+ Thứ hai, sự lưu giữ cùng một lúc trong đầu óc hai nội dung về vụ án (một được chuẩn bị để đối phó và một là diễn biến khách quan của vụ án) là rất phức tạp. Việc phải trả lời liên tiếp nhiều câu hỏi khác nhau càng làm cho người bị xét hỏi căng thẳng và dễ nhầm lẫn giữa hai nội dung trên, làm xuất hiện mâu thuẫn trong chính lời khai báo của họ.
Những mâu thuẫn trong lời khai của người bị xét hỏi trong hai tình huống trên là cơ sở để cán bộ xét hỏi đấu tranh với họ, buộc họ phải thay đổi thái độ của mình.
Ví dụ: Bị can A đưa ra chứng cứ ngoại phạm rằng, vào thời điểm xảy ra vụ án A đang chơi tại nhà B. Do có sự thoả thuận trước với A, khi được triệu tập để lấy lời khai, B rã xác nhận sự việc đó. Sử dụng phương pháp đặt và thay đổi vấn đề tư duy, điều tra viên liên tiếp hỏi B nhiều vấn để như: A đến nhà B lúc mấy giờ, đến bằng phương tiện gì, ai ra mở cửa cho A, quần áo A mặc như thế nào, vào nhà A ngồi ở đâu? A nói và làm gì?… tất cả những câu hỏi liên
tiếp vé các chi tiết rất cụ thể sẽ dẫn tới sự mâu thuẫn trong lời khai của B.
3.6. Phương pháp ám thị gián tiếp
Phương pháp ám thị là phương pháp dùng lời nói, hành vi, cử chỉ làm cho đối tượng tiếp nhận thông tin một cách thiếu sự kiểm soát và phê phán.
Trong giao tiếp, khi tiếp nhận thông tin từ người đối thoại, ta thường kiểm tra, phán xét lại bằng cách tự hỏi mình: điều đó có ý nghĩa gì, nó có đúng khống, tại sao người ta lại cho mình biết… Tuy nhiên, cũng có những trường hợp do tác động của người đối thoại, thông tin của họ được ta tiếp nhận thiếu sự kiểm tra. Đó là vì ta bị ám thị.
Ám thị là đặc điểm của cá thể. Ai cũng có thể bị ám thị, nhưng mức độ dễ, khó khác nhau. Khả năng bị ám thị phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
– Độ tuổi: nói chung trẻ em dễ bị ám thị hơn người lớn.
– Trạng thái tâm lý: trong trạng thái hồi hộp, lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi… khả năng bị ám thị tăng lên.
– Đặc điểm nhân cách: những người yếu đuối, thiếu tự tin, cả tin, nhút nhát, dẻ có ấn tượng, tư duy logic kém là những người dễ bị ám thị. Lượng thông tin bị hạn chế là yếu tố làm tăng khả năng bị ám thị.
Chính vì vậy, sử dụng phương pháp ám thị ở giai đoạn đầu của quá trình điểu tra thường cho kết quả khả quan hơn. Ngoài ra khả năng bị ám thị còn phụ thuộc vào uy tín của người ám thị, quan hệ giữa người ám thị và người bị ám thị, áp lực nhóm…
Có nhiều hình thức ám thị:
Khi nội dung ám thị được truyền thẳng đến đối tượng gọi là ám thị trực tiếp. Ví dụ: một đối tượng đã lừa đảo bằng cách, nhìn chằm chằm vào một người phụ nữ gặp trên đường, sau đó bảo rằng, da mặt của chị ta xấu quá, có biểu hiện của bệnh nặng và cần phải chữa ngay bằng một loại thuốc biệt dược quý hiếm. Quá hoảng hốt, chị phụ nữ tiếp nhận những thông tin này một cách thiếu sự đánh giá, phê phán và tường rằng mình bị bệnh thật.
Khi nội dung ám thị được che dấu, ngụy trang bằng các thông tin khác, thì gọi là ám thị gián tiếp. Trong hoạt động điều tra vụ án, hình thức này thường được sử dụng. Điều tra viên thường dùng những thông tin không liên quan đến vụ án, có ý nghĩa với đối tượng và họ không ngờ tới để tác động. Khi tiếp nhận những thông tin này, ở đối tượng sẽ hình thành những suy nghĩ mà điều tra viên muốn “ám thị”. Nói cách khác, điều tra viên gián tiếp thông qua những thông tin có ý nghĩa để ám thị những nội dung cần thiết.
Trên đây là một số phương pháp tác động tâm lý thường được sử dụng trong hoạt động tư pháp. Tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và mục đích của người sử dụng mà các phương pháp này được sử dụng một cách riêng rẽ
hoặc kết hợp. Tuy nhiên, sự kết hợp nhiều phương pháp với nhau thường cho kết quả tốt hơn, đáng tin cậy hơn.