Nguyên tắc cơ bản của tư pháp quốc tế Việt Nam là những tư tưởng chính trị, pháp lý cơ bản, có tính bao trùm, toàn diện, ổn định, chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng, giải thích và áp dụng tư pháp quốc tế Việt Nam. Bên cạnh những nguyên tắc chung của pháp luật nước ta, tư pháp quốc tế Việt Nam còn có những nguyên tắc cơ bản thể hiện đặc trưng riêng của ngành tư pháp quốc tế Việt Nam, đó là:
1. Nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau
Nội dung cơ bản của nguyên tắc là Nhà nước Việt Nam không phân biệt đối xử giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau trên thế giới. Các chế độ sở hữu này được đối xử bình đẳng với nhau về mặt pháp lí, không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, xã hội mà quốc gia theo đuổi. Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại, đó là bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
Bởi chế độ sở hữu là yếu tố then chốt quyết định hình thức và nội dung của hệ thống pháp luật quốc gia, cho nên, công nhận sự bình đẳng về mặt pháp lí giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau cũng có nghĩa là tôn trọng các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới.
Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó không những đảm bảo cho hoạt động giải thích và áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế Việt Nam được vận hành một cách khách quan, trơn tru, không hề có định kiến, áp đặt, mà còn đảm bảo sự bình đẳng về pháp lí giữa các chủ thể đến từ các quốc gia khác nhau khi tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế phát triển.
Điều 12 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã gián tiếp ghi nhận nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lí giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau trên thế giới, cụ thể như sau: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
2. Nguyên tắc quyền miễn trừ của quốc gia
Nội dung cơ bản của nguyên tắc quyền miễn trừ của quốc gia là, trong quan hệ tư pháp quốc tế, nếu không có sự đồng ý của quốc gia thì không một cơ quan nhà nước nào được phép xét xử, áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo cho vụ kiện, thi hành án đối với quốc gia cũng như áp dụng các biện pháp như tịch thu, sai áp, bắt giữ v.v. các tài sản thuộc sở hữu của quốc gia.
Như vậy, nguyên tắc quyền miễn trừ của quốc gia đảm bảo cho quốc gia khi tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế được hưởng quyền miễn trừ về tư pháp và miễn trừ đối với tất cả tài sản thuộc sở hữu của quốc gia. Nguyên tắc này cũng giống như nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lí giữa các chế độ sở hữu của các quốc gia khác nhau xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại, đó là bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
Quyền miễn trừ của quốc gia trong lĩnh vực tư pháp quốc tế được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia, chẳng hạn như: Công ước Brussels 1926 về thống nhất các quy định về miễn trừ tàu thuyền nhà nước, Công ước Vienna 1961 về quan hệ ngoại giao, Công ước Vienna 1963 về quan hệ lãnh sự, Công ước của Liên hợp quốc năm 2004 về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia, Luật về quyền miễn trừ nhà nước dành cho quốc gia nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976, Luật về quyền xét xử dân sự của nước Nhật với nước ngoài năm 2009…
Ngày nay, trong tư pháp quốc tế hiện đại, rất nhiều quốc gia trên thế giới đã từ bỏ quyền miễn trừ tuyệt đối, thay vào đó là chấp nhận nguyên tắc quyền miễn trừ hạn chế (tương đối) của quốc gia. Theo đó, quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ trong mọi quan hệ tư pháp quốc tế có liên quan mà quốc gia tham gia, trong một số trường hợp cụ thể, quốc gia sẽ không được hưởng quyền miễn trừ, chẳng hạn như: giao dịch thương mại, hợp đồng lao động với cá nhân, bồi thường thiệt hại về người và tài sản…
Cho đến nay, dù chưa có đạo luật riêng về quyền miễn trừ của quốc gia ở Việt Nam, tuy nhiên, tư pháp quốc tế Việt Nam hiện hành đã có quy định về từ bỏ quyền miễn trừ của quốc gia trong những trường hợp cụ thể. Điều 100 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương chịu trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự do mình xác lập với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
a) Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về việc từ bỏ quyền miễn trừ;
b) Các bên trong quan hệ dân sự có thỏa thuận từ bỏ quyền miễn trừ c) Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương từ bỏ quyền miễn trừ.
2. Trách nhiệm về nghĩa vụ dân sự của nhà nước, cơ quan nhà nước của nước ngoài khi tham gia quan hệ dân sự với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương, pháp nhân, cá nhân Việt Nam được áp dụng tương tự khoản 1 Điều này”.
Khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9, Điều 10 Luật về quyền xét xử dân sự của nước Nhật với nước ngoài năm 2009; (1) (a) Điều 1605, (5) (a) Điều 1605, (7) (a) Điều 1605 Luật về quyền miễn trừ nhà nước dành cho quốc gia nước ngoài của Hoa Kỳ năm 1976; khoản 1 Điều 10, khoản 1 Điều 11, Điều 12 Công ước của Liên hợp quốc năm 2004 về quyền miễn trừ tài phán và miễn trừ tài sản của quốc gia.

3. Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là, khi tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, về cơ bản, người nước ngoài được đối xử bình đẳng với nhau và với công dân Việt Nam, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị v.v.. Tuy nhiên, trong một số lĩnh vực liên quan đến chính trị, an ninh quốc gia, người nước ngoài phải chịu những hạn chế nhất định so với công dân Việt Nam, ví dụ như: người nước ngoài không được tham gia bầu cử, ứng cử các chức danh nhà nước, không được làm việc trong một số ngành nghề liên quan tới an ninh quốc gia, không được sở hữu nhà với thời hạn không xác định…
Đây cũng là nguyên tắc xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế hiện đại, đó là nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử trong quan hệ giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài và giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam được thể hiện rõ nét trong tư pháp quốc tế Việt Nam. Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội”; và Điều 48 quy định thêm: “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng theo pháp luật Việt Nam”.
Cụ thể hoá Hiến pháp 2013, khoản 2 Điều 673 Bộ luật dân sự 2015 nêu rõ: “Người nước ngoài tại Việt Nam có năng lực pháp luật dân sự như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”; khoản 2 Điều 465 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng có quy định tương tự: “Khi tham gia tố tụng dân sự, người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, nhà nước nước ngoài có quyền, nghĩa vụ tố tụng như công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam”; và khoản 4 Điều 5 Luật đầu tư 2014 quy định: “Nhà nước đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, phát triển bền vững các ngành kinh tế”.
4. Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Một điểm đáng lưu ý trong tư pháp quốc tế Việt Nam hiện nay là, nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong một số lĩnh vực mà pháp luật cho phép đã được áp dụng khá phổ biến. Nội dung cơ bản của nguyên tắc là, pháp luật cho phép các bên trong quan hệ thoả thuận lựa chọn luật áp dụng đối với quan hệ đó. Tuy nhiên, không phải mọi lĩnh vực mà tư pháp quốc tế điều chỉnh các bên đều được phép lựa chọn luật áp dụng, về cơ bản, các bên chỉ được phép lựa chọn luật áp dụng trong lĩnh vực hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong một số lĩnh vực mà pháp luật cho phép của tư pháp quốc tế Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tư pháp quốc tế hiện nay trên thế giới. Điều đó góp phần bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong giao dịch tư pháp quốc tế, thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế phát triển.
Có thể thấy rõ nguyên tắc này trong nội dung một số đạo luật có liên quan như, khoản 4 Điều 4 Luật đầu tư năm 2014 quy định: “Đối với hợp đồng trong đó có ít nhất một bên tham gia là nhà đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc tập quán đầu tư quốc tế nếu thoả thuận đó không trái với quy định của pháp luật Việt Nam”.
Khoản 1 Điều 687 Bộ luật dân sự 2015 quy định rõ: “Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này…” Tương tự, khoản 1 Điều 683 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thoả thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều này. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”.
5. Nguyên tắc có đi có lại
Nhằm bảo hộ triệt để quyền, lợi ích chính đáng của công dân, pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài cũng như công dân, pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam khi các chủ thể này tham gia vào các quan hệ tư pháp quốc tế, tư pháp quốc tế Việt Nam đã xây dựng nguyên tắc có đi có lại trong một số trường hợp cụ thể.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là, quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tại Việt Nam được xây dựng và đảm bảo thực thi trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ mà công dân, pháp nhân Việt Nam được quy định và đảm bảo thực thi ở nước ngoài tương ứng. Tùy theo quan hệ giữa Việt Nam và nước ngoài mà nguyên tắc có đi có lại thực chất hoặc hình thức sẽ được áp dụng.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 423 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài sau đây được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt Nam:
a) Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài được quy định tại điều ước quốc tế mà nước đó và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
b) Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành chính của Tòa án nước ngoài mà nước đó và Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế có quy định về công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Toà án nước ngoài trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại…”
Hay, khoản 3 Điều 465 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: “Nhà nước Việt Nam có thể áp dụng nguyên tắc có đi có lại để hạn chế quyền tố tụng dân sự tương ứng của người nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam của cơ quan, tổ chức nước ngoài mà Tòa án của nước đó đã hạn chế quyền tố tụng dân sự đối với công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam, chi nhánh, văn phòng đại diện tại nước ngoài của cơ quan, tổ chức Việt Nam”.
Điều 4 Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế 2002 chỉ rõ: “Nhà nước Việt Nam áp dụng Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi”.