Các loại tổ chức xã hội hiện nay

0

Tổ chức xã hội có rất nhiều tên gọi khác nhau. Thông thường tên gọi của tổ chức xã hội sẽ phản ánh dấu hiệu chung nhất và là tiêu chí tập hợp các thành viên của tổ chức. Từ góc độ nghiên cứu, dựa vào tính chất hoạt động của các tổ chức xã hội, có thể phân chia tổ chức xã hội thành những loại cơ bản, gồm: Tổ chức chính trị; tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức xã hội-nghề nghiệp; các hội được thành lập theo dấu hiệu riêng; tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng.


1. Tổ chức chính trị

Tổ chức chính trị là tổ chức mà thành viên gồm những người cùng hoạt động vi nhau vì một khuynh hướng chính trị nhất định. Sự tồn tại công khai, hợp pháp của các tổ chức chính trị chỉ được thừa nhận khi quyền lực nhà nước thuộc về một lực lượng xã hội nhất định và việc thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước được tiến hành bằng phương thức bầu cử dân chủ. Tổ chức chính trị tập trung những người tiên phong, đại diện cho giai cấp hay lực lượng xã hội nhất định, thực hiện những hoạt động có liên quan tới mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các tầng lớp xã hội mà hạt nhân của những hoạt động này là vấn đề giành, giữ chính quyền.

Trước năm 1988, ở nước ta tồn tại ba tổ chức chính trị với ý nghĩa là ba đảng phái chính trị tồn tại hợp pháp. Đó là Đảng dân chủ, Đảng xã hội và Đảng lao động Việt Nam (nay là Đảng cộng sản Việt Nam). Đảng dân chủ thành lập ngày 30/6/1944, Đảng xã hội thành lập ngày 27/02/1946. Kể từ khi thành lập, Đảng dân chủ và Đảng xã hội đã góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ghi nhận công lao to lớn đó, Hội đồng nhà nước đã trao tặng hai Đảng Huân chương sao vàng. Năm 1988, Đảng xã hội và Đảng dân chủ đã giải thể kết thúc hơn 40 năm hoạt động vẻ vang của mình.

Hiện nay, tại Việt Nam chỉ có một đảng chính trị được tồn tại và hoạt động hợp pháp là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động với mục đích chính trị là mở rộng hơn nữa khối đại đoàn kết dân tộc lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, nhằm đạt mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam là học thuyết Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội – điều này đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013: “Đảng cộng sn Việt Nam Đi tiên phong ca giai cấp công nhân, đng thời đội tiên phong của Nhân dân lao động của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp ng nhân, Nhân dân lao động của cn tộc, lấy chủ nghĩa Mác nin ởng Hồ Chí Minh làm nền tng ởng, lực lượng lãnh đạo Nhà ớc và cxã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân n, phục vNhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhim trước Nhân dân về những quyết định của mình(Điều 4).

Đảng cộng sản Việt Nam có cơ cấu tổ chức và cách thức sinh hoạt chặt chẽ theo điều lệ. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.

Hình minh họa. Các loại tổ chức xã hội hiện nay

2. Các tổ chức chính trị – xã hội

Tổ chức chính trị-xã hội là các tổ chức được thành lập bởi những thành viên đại diện cho lực lượng xã hội nhất định, thực hiện các hoạt động xã hội rộng rãi và có ý nghĩa chính trị nhưng các hoạt động này không nhằm tới mục đích giành chính quyền. Do quy mô và tính chất hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội mà các tổ chức này thường tồn tại và hoạt động bên cạnh các tổ chức chính trị Vi tính chất hỗ trợ hoạt động của các tổ chức chính trị. Các tổ chức chính trị-xã hội hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, được chia thành nhiều cấp để hoạt động trong phạm vi cả nước. Các tổ chức này có điều lệ hoạt động do đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu các thành viên thông qua, Các tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.

Một số tổ chức chính trị-xã hội tiêu biểu ở Việt Nam là: Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh.

2.1. Mặt trận tổ quốc Việt Nam

Mặt trận tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập nhằm mục đích tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tuyên truyền động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.

Mặt trận tổ quốc Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.

Các cá nhân tiêu biểu và các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, tổ chức xã hội khác nếu nhất trí điều lệ của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, có đơn tự nguyện gia nhập và được Mặt trận tổ quốc đồng ý xét kết nạp thì sẽ trở thành thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

2.2. Công đoàn

Công đoàn là tổ chức chính trị-xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; đại diện cho cán bộ, công chức, viên chức, công nhân và những người lao động khác, cùng với cơ quan nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lí nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp; tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kĩ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Công đoàn có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và được phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Công đoàn tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là đại hội công đoàn cấp đó. Giữa hai kì đại hội cơ quan lãnh đạo là ban chấp hành công đoàn do đại hội bầu ra.

Hệ thống tổ chức công đoàn gồm có Liên đoàn lao động Việt Nam và công đoàn các cấp theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.

2.3. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức hội của thanh niên, được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với thanh niên. Các tổ chức của Đoàn thanh niên được hình thành trên phạm vi cả nước, mặt hầu như tất cả các tổ chức, đơn vị, cơ quan từ trung ương đến địa phương.

2.4. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam

Là tổ chức xã hội của giới nữ, được thành lập nhằm động viên thu hút các tầng lớp phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, đấu tranh chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng nam – nữ.

2.5. Hội nông dân Việt Nam

Là tổ chức của giai cấp nông dân Việt Nam, được thành lập nhằm bảo vquyền và lợi ích chính đáng, phản ánh tâm tư nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt Nam.

2.6. Hội cựu chiến binh Việt Nam

Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức đại diện cho ý chí và quyền lợi của cựu chiến binh, là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.

Hội cựu chiến binh được thành lập và hoạt động nhằm mục đích phát huy truyền thống “Bộ đội cụ Hồ” tham gia bảo vthành quả cách mạng, bảo vệ Đảng cộng sản Việt Nam, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của hội viên, giúp đỡ lẫn nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.


3. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp

Xã hội càng phát triển, sự phân công lao động xã hội ngày càng cao. Để đáp ứng nhu cầu phát triển đa chiều của xã hội, mở rộng dân chủ… Nhà nước cho phép hình thức tổ chức xã hội-nghề nghiệp được hình thành. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp là tập hợp từ nguyên của những cá nhân, tổ chức cùng thực hiện các hoạt động nghề nghiệp, được thành lập nhằm hỗ trợ các thành viên trong hoạt động nghề nghiệp và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên.

Tổ chức xã hội-nghề nghiệp được chia thành hai nhóm:

Nhóm thứ nhất, gồm các tổ chức xã hội xác lập một nghề nghiệp riêng biệt được Nhà nước thừa nhận, thành viên là những người có chức danh nghề nghiệp của tổ chức đó do Nhà nước quy định, hoạt động nghề nghiệp được tiến hành theo pháp luật chuyên biệt và đặt dưới sự quản lí của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội – nghề nghiệp này phải hoạt động nghề nghiệp trong các tổ chức hành nghề do Nhà nước quy định. Các tổ chức xã hội – nghề nghiệp thuộc nhóm này, trong phạm vi pháp luật quy định có thể thực hiện những tác động quản lí đối với hoạt động nghề nghiệp của các thành viên. Ví dụ, có thể có các tác động trong việc công nhận chức danh nghề nghiệp là điều kiện để hành nghề và trở thành thành viên của tổ chức.

Đoàn luật sư là tổ chức thể hiện rõ nét những đặc tính căn bản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc nhóm đặc thù. Đoàn luật sư là hội – nghề nghiệp của các luật sư được thành lập nhằm mục đích tập hợp, hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi cho các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp và nâng cao hiệu quả hành nghề của các luật sư thành viên. Người có chứng chỉ hành nghề luật sư phải gia nhập Đoàn luật sư do mình lựa chọn để hành nghề luật sư. Tổ chức luật sư toàn quốc cấp thẻ luật sư cho các thành viên theo sự đề nghị của đoàn luật sư. Ngoài ra, có thể xếp một số tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc nhóm này như: Hội nhà báo Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam: Hiệp hội trọng tài.

Theo Luật trọng tài thưOng mại, Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội-nghề nghiệp của các trọng tài viên và các trung tâm trọng tài. Khi chưa có Luật trọng tài thương mại năm 2010 (có hiệu lực ngày 01/01/2011) thì các trung tâm trọng tài thương mại là các tổ chức phi chính phủ, hoạt động với tính chất là tổ chức xã hội-nghề nghiệp, được Chính phủ cho phép thành lập khi có năm sáng lập viên và được Hội luật gia giới thiệu. Hiện nay, theo Luật trọng tài thương mại, trung tâm trọng tài thương mại được hiểu là các tổ chức hành nghề trọng tài, do Bộ trưởng Bộ tư pháp cho phép thành lập khi có năm sáng lập viện và phải có điều lệ hoạt động. Trung tâm trọng tài thương mại thực hiện dịch vụ trọng tài nhằm hỗ trợ, xúc tiến hoạt động thương mại. Tuy nhiên, trung tâm trọng tài không là đối tượng hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Xét về tính chất hoạt động phi lợi nhuận của trung tâm trọng tài thương mại thì trung tâm trọng tài không phải là một tổ chức kinh tế.

Có thể nói, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp thuộc nhóm thứ – nhất được hình thành để hỗ trợ và phối hợp cùng cơ quan nhà nước giải quyết một số công việc xã hội. Mặc dù vậy, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp này vẫn có đầy đủ những dấu hiệu chung của tổ chức xã hội, tức là: Hoạt động mang tính tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định, hoạt động không mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.

Việc xác định các tổ chức xã hội thuộc loại tổ chức xã hội nghề nghiệp đặc thù, căn bản dựa vào dấu hiệu: Xác lập nghề nghiệp riêng biệt được Nhà nước thừa nhận, thành viên của tổ chức phải đáp ứng các tiêu chuẩn nghề nghiệp do Nhà nước quy định bằng pháp luật; chỉ các thành viên của tổ chức mới có chức danh nghề nghiệp của tổ chức và coi hoạt động nghề nghiệp của tổ chức là nghề nghiệp của mình.

Nhóm thứ hai: Các hội nghề nghiệp, đây là các tổ chức xã hội được thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, thành viên của tổ chức là những cá nhân, tổ chức yêu thích ngành nghề đó, tự nguyện tham gia. Hoạt động nghề nghiệp của các hội nghề nghiệp không xác lập riêng biệt, không có chức danh nghề nghiệp riêng của tổ chức dành cho thành viên. Việc thành lập, đăng kí hoạt động của các hội nghề nghiệp được tiến hành theo các quy định chung về quản lí hội. Các tổ chức xã hội-nghề nghiệp thuộc nhóm này, ví dụ: hội làm vườn, hội những người nuôi ong; hiệp hội thuỷ sản, hiệp hội mây tre đan…

Cũng có quan điểm cho rằng, nên xếp các hội nghề nghiệp thuộc nhóm hai, vào loại các hội quần chúng được thành lập theo dấu hiệu riêng. Tuy nhiên, việc phân loại các tổ chức xã hội chỉ là tương đối. Cách chia tổ chức xã hội-. nghề nghiệp thành hai nhóm như trên, nhằm giúp cho việc nhận diện rõ hai loại tổ chức xã hội có cùng chung yếu tố dấu hiệu nghề nghiệp.


4. Các hội được thành lập theo dấu hiệu riêng

Các tổ chức xã hội loại này rất đa dạng, phong phú, có số lượng nhiều nhất so với các loại tổ chức xã hội khác. Có thể nói quyền tự do lập hội của công dân được thể hiện rất rõ nét trong việc thành lập ra các tổ chức xã hội loại này. Hội có rất nhiều tên gọi khác nhau như: hiệp hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, câu lạc bộ… gắn với dấu hiệu đặc điểm riêng, các dấu hiệu riêng này thường là tiêu chí để tập hợp thành viên hình thành tổ chức. Tên của hội do các thành viên thống nhất quyết định, được ghi nhận trong điều lệ của hội và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận thông qua việc cấp phép thành lập hội. Các hội được thành lập theo dấu hiệu riêng rất đa dạng dụ: Hội những người yêu thể thao, hội người khuyết tật, Câu lạc bộ những người yêu thơ, hiệp hội bảo tồn thiên nhiên vv…

Các hội có phạm vi hoạt động khác nhau, có thể hoạt động trong phạm vi cả nước hoặc liên tỉnh, có thể hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong phạm vi quận, huyện hoặc xã, phường tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động và khả năng quy mô của hội. Việc thành lập hội phải xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hội được tổ chức, hoạt động theo điều lệ. Điều lệ của hội không trái với pháp luật và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Công dân, tổ chức Việt Nam có đủ điều kiện là hội viên theo quy định của hội, tự nguyện xin gia nhập hội thì đều có thể trở thành hội viên của hội. Hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự trang trải kinh phí và chịu trách nhiệm trước pháp luật.


5. Tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng

Tổ chức tự quản phục vụ lợi ích cộng đồng được hình thành từ nhu cầu của cộng đồng nhằm góp phần ổn định an ninh, trật tự tại cơ sở.

Các tổ chức này được thành lập theo sáng kiến của Nhà nước, hoạt động theo quy định chung của Nhà nước nhằm mục đích thực hiện nhiệm vụ tự quản trong phạm vi giới hạn tại khu phố, thôn xóm hoặc các đơn vị sự nghiệp, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Các tổ chức tự quản thường được thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, giữa các tổ chức cùng loại không có mối quan hệ lệ thuộc vtổ chức. Do đó, các tổ chức tự quản thuộc loại này không tạo thành hệ thống hoạt động trên phạm vi toàn quốc. Hoạt động của tổ chức tự quản đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Các Cơ quan nhà nước hữu quan tại địa phương hoặc chịu sự quản lý trực tiếp của các đơn vị cƠ SỞ. Các tổ chức tự quản rất đa. dạng, d, tổ chức thanh tra nhân dân, tổ dân phố, tổ dân phòng, tổ hoà giải…

5/5 - (96 bình chọn)

 
® 2024 LawFirm.Vn - Thông tin do LawFirm.Vn cung cấp không thay thế cho tư vấn pháp lý. Nếu bạn yêu cầu bất kỳ thông tin nào, bạn có thể nhận được cuộc gọi điện thoại hoặc email từ một trong những Quản lý của chúng tôi. Để biết thêm thông tin, vui lòng xem chính sách bảo mật, điều khoản sử dụng, chính sách cookie và tuyên bố miễn trừ trách nhiệm của chúng tôi.
Có thể bạn quan tâm
Để lại câu trả lời

Trường "Địa chỉ email" của bạn sẽ không được công khai.