Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
Dưới góc độ lý luận, nếu như đối tượng điều chỉnh của pháp Luật Sở hữu trí tuệ là các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình sáng tạo, khai thác, sử dụng các tài sản trí tuệ, thì nhìn nhận sâu hơn, đối tượng của loại quan hệ pháp luật này chính là các tài sản trí tuệ. Nếu quan niệm khách thể của quan hệ pháp luật là các hành vi của cá nhân, tổ chức khi tham gia vào quan hệ pháp luật, thực hiện quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý thì trong lĩnh vực SHTT, có thể coi tài sản trí tuệ chính là khách thể của khách thể quan hệ pháp luật về SHTT.
1. Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ là gì?
Theo thông lệ quốc tế và các Điều ước quốc tế về SHTT, trực tiếp là Công ước WIPO và Hiệp định TRIPS, các đối tượng SHTT có thể được hiểu bao gồm: các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; các hoạt động của các nghệ sỹ biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát thanh, truyền hình; các sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, chỉ dẫn thương mại, tên thương mại, giống cây trồng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, thậm chí kể cả bí mật thương mại, thông tin bí mật và sau này là các hình thức thể hiện nghệ thuật truyền thống dân gian, chủng vi sinh, chương trình máy tính, tên miền Internet. Danh mục các đối tượng SHTT này mang tính chất mở, bởi Công ước WIPO quy định mở về quyền SHTT đối với tất cả các kết quả khác của hoạt động trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học và nghệ thuật. Hơn nữa, trong bối cảnh KH&CN và các hoạt động sáng tạo trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của thế giới hiện đại không ngừng đổi mới và phát triển với tốc độ nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều các đối tượng SHTT mới được thừa nhận và bảo hộ trong tương lai, bên cạnh các đối tượng SHTT truyền thống đã có lịch sử hàng trăm năm tồn tại.
Pháp luật Việt Nam về SHTT đã có sự kế thừa và điều chỉnh cho phù hợp với thông lệ quốc tế và các Điều ước quốc tế về SHTT mà Việt Nam là thành viên. Do vậy, đã xác định tương đối đầy đủ danh mục các đối tượng SHTT được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Theo Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, các đối tượng quyền SHTT bao gồm đối tượng quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; đối tượng quyền SHCN và đối tượng quyền đối với giống cây trồng.
– Đối tượng quyền tác giả bao gồm: mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào. Cụ thể là: các tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; các bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, công trình khoa học; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.
Danh mục loại trừ của các đối tượng này bao gồm: các tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
– Đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm: cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
– Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) bao gồm: sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh.
– Đối tượng quyền đối với giống cây trồng bao gồm: giống cây trồng và vật liệu nhân giống. Tuy nhiên, theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ vừa mới được Quốc hội khóa XII thông qua tại Kỳ họp thứ 5, đối tượng quyền đối với giống cây trồng bao gồm cả các “vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch”.
2. Đặc điểm của đối tượng sở hữu trí tuệ
2.1. Đặc điểm chung
– Đặc tính sáng tạo và đổi mới: SHTT là việc vận dụng tư duy tưởng tượng và sáng tạo của trí tuệ con người để giải quyết các vấn đề về kỹ thuật và nghệ thuật. Các đối tượng SHTT dù trong lĩnh vực nào đều là kết quả của hoạt động sáng tạo và đổi mới, được tạo ra dựa trên nền tảng tri thức và thông tin đã được kết tụ, tích luỹ. Sáng tạo là động lực thúc đẩy đổi mới và ngược lại, đó là chìa khóa tạo nên những tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực KH&CN và nghệ thuật, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển và làm giàu thêm kho tàng của cải, vật chất và tinh thần của nhân loại.
– Đặc tính vô hình: Một vấn đề cần hết sức lưu ý khi tìm hiểu về các đối tượng SHTT, đó là đặc tính vô hình, hay nói cách khác là đặc tính phi vật thể của các đối tượng quyền SHTT.
Các đối tượng SHTT khác với các vật thể, tài sản hữu hình ở chỗ chúng không có bản chất vật lý (không thể nhận biết sự tồn tại của chúng nhờ các giác quan) và tồn tại dưới dạng các thông tin, tri thức chứa đựng nhận thức về tự nhiên, xã hội và con người (các hiện tượng, trạng thái, quy luật,…). Đặc tính vô hình của các đối tượng SHTT là yếu tố đặc biệt quan trọng cần xem xét khi thiết kế các quy tắc ứng xử, bởi đây cũng là yếu tố gây khó khăn cho việc thiết lập chế độ kiểm soát và thực hiện biện pháp bảo vệ các đối tượng này.
Một điểm cần lưu ý khác là các đối tượng SHTT tuy vô hình khi mới được tạo ra nhưng trở nên rất có giá trị dưới dạng sản phẩm hữu hình. Tuy vô hình, nhưng các đối tượng này cũng mang đặc tính xác định được (về bản chất – nội dung, phạm vi – giới hạn, chức năng, công dụng và kể cả về giá trị). Nhờ vậy, mỗi loại đối tượng SHTT đều có thể độc lập tồn tại và phân biệt được với các đối tượng khác dưới một hình thức vật chất nhất định thông qua các phương tiện như ngôn ngữ, hình vẽ, ảnh chụp,… tùy theo từng thể loại. Tuy nhiên, SHTT không phải là bản thân sản phẩm mà là ý tưởng đặc biệt chứa đựng đằng sau sản phẩm, là cách thức thể hiện ý tưởng đó và là cách thức riêng mà sản phẩm được gọi tên và mô tả.
– Đặc tính dễ bị xâm phạm: Các đối tượng SHTT do đặc thù phi vật thể, dễ lan truyền và khó nắm giữ ở một địa điểm nhất định như các tài sản hữu hình nên rất dễ bị xâm phạm (bị sao chép, bắt chước); đồng thời, các hành vi xâm phạm các đối tượng SHTT cũng khó có thể xác định, đánh giá và kiểm soát (như bị làm giả, làm nhái với các kỹ thuật tinh vi, hiện đại). Do vậy, việc thiết lập hệ thống bảo vệ quyền SHTT, ngăn ngừa và đấu tranh chống các hành vi xâm phạm quyền đang trở thành mối quan tâm và nỗ lực chung của các quốc gia trên thế giới.
– Cơ chế bảo hộ các đối tượng SHTT mang tính đặc thù: Việc bảo hộ các đối tượng SHTT phụ thuộc vào nhiều yếu tố như thời hạn bảo hộ (theo pháp luật quy định), lãnh thổ bảo hộ (chỉ được bảo hộ trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia hoặc nhóm quốc gia công nhận hay cấp văn bằng bảo hộ). Ngoài ra, mức độ bảo hộ đối với các đối tượng SHTT còn phụ thuộc vào chính sách riêng của từng quốc gia trong phát triển kinh tế thương mại trong nước và quốc tế.
Bên cạnh đó, các quyền đối với các đối tượng SHTT có thể bị giới hạn trong một số trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định (như đã nêu ở Phần I trên đây).
2.2. Đặc điểm phân biệt giữa các nhóm đối tượng quyền SHTT
Ở đây, cần phân biệt được sự khác nhau cơ bản giữa cơ chế bảo hộ các đối tượng của quyền tác giả với các đối tượng của quyền SHCN (kể cả giống cây trồng), thể hiện trong bảng sau:
Quyền tác giả | Quyền SHCN | |
Nguyên tắc chung | Bảo hộ về hình thức | Bảo hộ về mặt nội dung |
Lĩnh vực | Văn học, nghệ thuật, khoa học | Công nghệ, thương mại |
Đối tượng bảo hộ | Tác phẩm | Sáng chế/giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, tên thương mại… |
Thời hạn bảo hộ | Bảo hộ vô thời hạn hoặc có thời hạn | Bảo hộ có thời hạn |
Điều kiện bảo hộ | Tính nguyên gốc, được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định | Tính mới, tính sáng tạo, tính khác biệt, tính ứng dụng |
Thủ tục bảo hộ | Bảo hộ tự động | Yêu cầu đăng ký |