Các doanh nghiệp có và không có tư cách pháp nhân
Luật doanh nghiệp 2020 quy định nhiều các loại hình doanh nghiệp khác nhau, bao gồm công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Nhưng không phải tất cả các loại hình doanh nghiệp này đều có tư cách pháp nhân.
1. Điều kiện được coi là có tư cách pháp nhân
Điều kiện để được coi là một pháp nhân, cụ thể theo quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự 2015, một tổ chức được pháp luật thừa nhận là pháp nhân khi đáp ứng đủ 4 điều kiện sau:
(1) Được thành lập hợp pháp theo quy định của BLDS hay pháp luật có liên quan;
(2) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
(3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình;
(4) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Chỉ khi đáp ứng đủ 4 điều kiện này, tổ chức mới được xem là có tư cách pháp nhân.
2. Các doanh nghiệp có và không có tư cách pháp nhân
2.1. Đối với Công ty TNHH (một thành viên hoặc hai thành viên trở lên)
Luật Doanh nghiệp 2020 quy định công ty TNHH sẽ có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoảng nợ nằm trong phạm vi số vốn góp vào công ty, chính vì thế có sự tách biệt rõ rệt giữa tài sản của công ty với tài sản của cá nhân, tổ chức khác và công ty sẽ tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó của mình.
Đối với Công ty TNHH một thành viên, cũng chỉ có một chủ sở hữu như doanh nghiệp tư nhân nhưng lại chịu trách nhiệm hữu hạn trong số vốn của công ty (không giống như Doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn) nên từ đó, cũng tạo nên sự khác biệt về tư cách pháp nhân. Đồng thời, mọi hoạt động của Công ty TNHH đều phải được tách bạch với chủ sở hữu, công ty TNHH sẽ có người đại diện theo pháp luật đứng ra thực hiện một số hoạt động nhân danh công ty.
2.2. Đối với Công ty Cổ phần
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Công ty cổ phần được thành lập có tài sản độc lập đối với các cá nhân, tổ chức khác.
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty cổ phần cũng nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập thông qua người đại diện theo pháp luật của công ty.
2.3. Đối với công ty hợp danh
Công ty hợp danh được pháp luật thừa nhận là có tư cách pháp nhân khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ở công ty hợp danh bao gồm 2 tư cách thành viên: thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty và thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Dù thành viên hợp danh có trách nhiệm vô hạn nhưng chỉ trong trường hợp tài sản của công ty không đủ để chịu trách nhiệm thì tài sản của các thành viên hợp danh (đã chuyển quyền sở hữu cho công ty) mới được sử dụng đến nên xét ở một phần nào đó, công ty hợp danh vẫn có tài sản độc lập với thành viên hợp danh của công ty đó.
2.4. Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân không được pháp luật thừa nhận là có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp chỉ do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Đồng thời, khi tham gia vào các quan hệ tố tụng, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ là nguyên đơn, hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các tranh chấp liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, chứ không phải là nhân danh doanh nghiệp tư nhân.