Theo quy định tại Điều 595 Bộ luật Dân sự 2015 thì:
“1. Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
2. Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”.
Bộ luật Dân sự 2015 không đưa ra khái niệm tình thế cấp thiết. Tuy nhiên, Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2. Trong trường hợp thiệt hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định của pháp luật hình sự, hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người thực hiện hành vi phạm tội với Nhà nước, còn trách nhiệm dân sự (bồi thường) là trách nhiệm giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
Khoản 1 Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Bộ luật Dân sự 2015 đã bỏ quy định này, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu nếu như người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải chịu trách nhiệm hình sự thì dưới góc độ pháp luật dân sự, họ cũng không phải bồi thường. Chỉ coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và người gây thiệt hại không phải bồi thường thiệt hại khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Có một nguy cơ đang thực tế đe dọa cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Cần lưu ý rằng, tình thế cấp thiết chỉ là “nguy cơ” đe dọa gây thiệt hại nhưng thiệt hại chưa xảy ra. Do đó, bản thân người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải cân nhắc tính toán về nguy cơ này. Nguy cơ gây thiệt hại đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ có thể xuất phát từ hành vi trái pháp luật của con người, tác động của thiên nhiên (bão, lũ, cháy…), súc vật tấn công…
Thứ hai: Nguy cơ phải có thực, tức là phải đang bắt đầu, đang diễn ra và chưa kết thúc. Nếu nguy cơ không có thực, đã xảy ra rồi thì không thể tồn tại tình thế cấp thiết.
Thứ ba: Nguy cơ đang đe dọa lợi ích được pháp luật bảo vệ, điều đó có nghĩa là những lợi ích này phải hợp pháp. Đối với các lợi ích không hợp pháp thì không thể viện dẫn là gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết.
Thứ tư: Việc gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là biện pháp tốt nhất để ngăn chặn thiệt hại có nguy cơ xảy ra. Trong khi có một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ, với các yếu tố khách quan và chủ quan thì bản thân người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại cho một đối tượng khác (cần lưu ý là không phải gây thiệt hại cho “nguy cơ đe doạ”) để ngăn chặn thiệt hại xảy ra.
Thứ năm: Thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải là thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Khi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết, bản thân người gây thiệt hại phải cân nhắc, tính toán giữa một bên là hậu quả có thể xảy ra cho đối tượng được pháp luật bảo vệ khi có nguy cơ đe dọa gây thiệt hại với thiệt hại mà mình sẽ gây ra trong tình thế cấp thiết. Do đó, chỉ coi là gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết nếu thiệt hại xảy ra là nhỏ hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa.
Trên thực tế, có những trường hợp một người gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết thoả mãn đầy đủ bốn điều kiện trên đây, tuy nhiên điều kiện thứ năm lại không được thoả mãn, tức là thiệt hại được gây ra trong tình thế cấp thiết lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.
Trong trường hợp người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết nhưng có sự sai lầm trong việc đánh giá giữa hậu quả của nguy cơ đe dọa với thiệt hại sẽ xảy ra, do đó họ gây ra một thiệt hại lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được giải quyết như thế nào? Khoản 1 Điều 595 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại”.
Người gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết đã có sự sai lầm trong việc đánh giá mức độ gây thiệt hại của “nguy cơ đe doạ” nên họ đã gây thiệt hại vượt quá so với yêu cầu của tình thế cấp thiết. Lỗi của người gây thiệt hại được xác định là lỗi đối với phần vượt quá nên họ chỉ phải bồi thường thiệt hại đối với phần vượt quá mà thôi.
Nguyên tắc chung là không buộc người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp họ gây thiệt hại vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì họ phải bồi thường phần vượt quá. .
Khoản 2 Điều 595 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”. Theo quy định này, người gây ra tình thế cấp thiết sẽ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Mặc dù bản thân người này không phải là người trực tiếp gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ, tuy nhiên họ là người đã tạo ra “nguy cơ đe dọa gây thiệt hại cho các lợi ích đó, do vậy họ phải là người chịu trách nhiệm bồi thường.
Pháp luật dân sự chỉ quy định người gây ra tình thế cấp thiết phải bồi thường thiệt hại do tình thế cấp thiết gây ra (họ không phải bồi thường phần vượt quá vì phần này người gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết sẽ phải là người bồi thường), tuy nhiên nếu “nguy cơ đe dọa gây thiệt hại” – tức là tình thế cấp thiết không phải do con người gây ra (do thiên nhiên mang lại) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết không đặt ra mà phải coi là rủi ro mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh chịu.