Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự thường là bên yếu thế và dễ bị xâm phạm quyền lợi, do đó pháp luật dân sự ngày càng có những sự sửa đổi bổ sung các quy định để góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi của bên thứ ba ngay tình. Thông qua bài viết này người đọc sẽ có thể hiểu thế nào là người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, các trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ khi giao dịch dân sự vô hiệu cũng như thấy được sự sửa đổi bổ sung của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định này:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
1.1. Giao dịch dân sự vô hiệu?
Trước hết, cần hiểu thế nào là một giao dịch dân sự vô hiệu? Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không có hiệu lực khi xác lập giữa các bên (hoặc xác lập bởi chủ thể có hành vi pháp lý đơn phương) đã vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định dẫn tới hậu quả pháp lý là không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt bất kỳ một quyền, nghĩa vụ dân sự.
Cụ thể, giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của BLDS 2015 thì vô hiệu, trừ trường hợp BLDS 2015 có quy định khác:
Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
1.2. Người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu?
Vậy, thế nào là người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu? Trong trường hợp người thứ ba tham gia vào giao dịch dân sự thì đã có một giao dịch dân sự được xác lập và thực hiện trước đó về cùng một đối tượng nhưng giao dịch dân sự này bị vô hiệu. Người thứ ba khi xác lập giao dịch được xem là “ngay tình” khi họ không biết hoặc không thể biết rằng mình đã tham gia vào giao dịch dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản, hoặc đối tượng của giao dịch liên quan đến giao dịch đã bị vô hiệu trước đó.
Tuy nhiên, tài sản đưa ra giao dịch phải được phép giao dịch theo quy định pháp luật. Đối với các loại tài sản mà pháp luật quy định cấm lưu thông (ma túy, động vật hoang dã quý hiếm…) thì người thứ ba buộc phải biết và việc xác lập giao dịch đối với loại tài sản này đều bất hợp pháp, không được pháp luật bảo vệ. Còn đối với loại tài sản mà pháp luật quy định hạn chế lưu thông (ngoại tệ, vũ khí,…) thì chỉ khi đảm bảo các điều kiện ràng buộc kèm theo thì giao dịch dân sự đó mới có hiệu lực pháp luật.
2. Các trường hợp người thứ ba được bảo vệ quyền lợi khi giao dịch dân sự vô hiệu
Người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi khi giao dịch dân sự vô hiệu trong các trường hợp sau (Điều 133 BLDS 2015):
2.1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của BLDS 2015 (Khoản 1 Điều 133 BLDS 2015).
Trong trường hợp này đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký do đó người thứ ba được xem là ngay tình vì không có cơ sở để biết mình đã tham gia vào giao dịch mà tài sản đã được chuyển giao cho mình là đối tượng của một giao dịch đã bị vô hiệu trước đó, cho nên giao dịch với họ vẫn được pháp luật bảo vệ. Trường hợp như vậy thường xảy ra đối với những tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: xe đạp, laptop, điện thoại di động…
Tuy nhiên, đối với trường hợp người thứ ba có được tài sản thông qua hợp đồng dân sự “không có đền bù” với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc trong trường hợp người thứ ba tham gia hợp đồng với những loại tài sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì giao dịch với người thứ ba vẫn bị vô hiệu và chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản đó. (Điều 167 BLDS 2015).
Ví dụ: Để có tiền chơi điện tử A (12 tuổi) đã lén bán chiếc xe đạp của bố mẹ cho anh B, sau đó anh B đã bán chiếc xe đạp này cho anh C, anh C đã trả tiền mua xe đạp cho B và nhận xe. Trong trường hợp này, xét theo quy định của Điều 21 và Điều 125 BLDS năm 2015 thì giao dịch giữa A và anh B bị vô hiệu do anh B giao dịch với người chưa thành niên (A chỉ 12 tuổi) và việc bán chiếc xe đạp này của A không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày, đồng thời chưa có sự đồng ý của bố mẹ A.
Còn đối với giao dịch giữa anh B và anh C không bị vô hiệu theo quy định tại Khoản 1 Điều 133 BLDS 2015 bởi đối tượng của giao dịch ở đây xe đạp – tài sản không phải đăng ký. Trong trường hợp này anh C được coi là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi, lúc này chủ sở hữu tài sản là cha mẹ của A không có quyền đòi lại tài sản từ anh C. Nhưng ngược lại nếu anh C có được chiếc xe đạp do được anh B tặng chứ không phải là mua hoặc trong trường hợp anh C mua lại chiếc xe đạp từ anh B nhưng chiếc xe đạp này anh B trộm của gia đình A thì căn cứ theo quy định tại Điều 167 của BLDS năm 2015 thì chủ sở hữu của chiếc xe đạp là bố mẹ của A vẫn có quyền đòi lại chiếc xe đạp từ anh C vì anh C có được tài sản này do được ông B tặng cho là hợp đồng không có đền bù hoặc anh C có được tài sản này mua lại chiếc xe đạp do anh B trộm mặc dù anh C không biết được chiếc xe đạp mình mua do ông B trộm.
2.2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu. (Đoạn 1 Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015)
Quy định như trên là do người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và họ đã căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch và việc căn cứ này là hợp lý cho nên mặc dù tài sản này là đối tượng giao dịch dân sự trước đó đã bị vô hiệu thì giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba.
Ví dụ: A bán cho B một mảnh đất, các bên thỏa thuận giá trị của mảnh đất là 3.000.000.000 đồng. Nhưng hai bên lập một hợp đồng trong đó chỉ ghi giá trị của ngôi nhà là 2.000.000.000 đồng để gian lận việc nộp phí trước bạ sang tên. B đã thực hiện xong mọi thủ tục để chuyển quyền sở hữu mảnh đất sang cho mình sau đó bán lại cho C. Như vậy, hợp đồng giữa A và B ghi giá trị ngôi nhà là 2.000.000.000 đồng bị coi là hợp đồng giả tạo và bị vô hiệu. Tuy nhiên đối với hợp đồng giữa B và C vẫn có hiệu lực theo quy định tại Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 bởi C căn cứ vào việc đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và dựa vào đó xác định B là chủ sở hữu là hoàn toàn hợp lý.
2.3. Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa (Đoạn 2 Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015)
Trong trường hợp trên người thứ ba sẽ được pháp luật công nhận là người thứ ba ngay tình và giao dịch của họ được pháp luật bảo vệ bởi người thứ ba đã căn cứ vào việc tài sản đã được thông qua bán đấu giá tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó quyết định người giao dịch với mình có quyền sở hữu tài sản là đối tượng của giao dịch và việc căn cứ này là hợp lý.
Ví dụ: Anh A căn cứ vào Bản án lý hôn giữa anh B và chị C để xác lập giao dịch với chị C đối với tài sản mà chị C được nhận được theo bản án là ngôi nhà. Trong thời gian anh A làm thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật thì bản án bị sửa theo thủ tục giám đốc thẩm, theo đó bản án sau khi giám đốc thẩm công nhận quyền sở hữu ngôi nhà này là của anh B chứ không phải của chị C, nhưng trong trường hợp này theo quy định tại Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 giao dịch giữa anh A với chị C đối với tài sản là ngôi nhà này vẫn có hiệu lực pháp luật, mặc dù C không phải chủ sở hữu của ngôi nhà.
2.4. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu thực sự của tài sản và của cả người thứ ba ngay tình khi tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến đối tượng giao dịch cùng là một tài sản, khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 quy định: “Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.”
3. So sánh quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu của BLDS 2005 và BLDS 2015
Quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu tại khoản 1 Điều 133 BLDS 2015 giữ nguyên nội dung của khoản 1 Điều 138 BLDS 2005, sự sửa đổi rất nhỏ chỉ mang tính kỹ thuật. BLDS 2015 chủ yếu có sự sửa đổi, bổ sung ở Khoản 2, Khoản 3 Điều 133 BLDS 2015 như sau:
Điều 138. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu BLDS 2005 | Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu BLDS 2015 |
---|---|
Khoản 2 Điều 138 BLDS 2005 quy định trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba “bị vô hiệu” | Trong khi đó Khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 quy định tường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó “không bị vô hiệu”. Đây là sự sửa đổi bổ sung nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho người thứ ba ngay tình. |
Điều 133 BLDS 2015 bổ sung thêm quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS 2015 nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. |
Như vậy, so với các BLDS 2005 thì BLDS 2015 đã quy định chặt chẽ, chi tiết và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.